Chương 4

Máu Lạnh

Đăng vào: 12 tháng trước

.

LỄ KẾT HÔN CỦA CLUTTER VÀ ENGLISH ĐƯỢC TỔ CHỨC VÀO THỨ BẢY: tiêu đề này xuất hiện trên trang xã hội của tờ Điện tín Garden City ngày 23 tháng Mười một làm nhiều người đọc ngạc nhiên. Hình như Beverly, cô con gái thứ hai sống sót của ông Clutter đã cưới anh Vere Edward English, cậu sinh viên khoa Sinh học mà cô đã đính ước từ lâu. Cô Clutter mặc đồ trắng và đám cưới đầy đủ nghi thức (“Bà Leonard Cowan đơn ca và bà Howard Blanchard chơi đàn organ”) đã được “tiến hành trọng thể tại Nhà thờ Giám lý Thứ nhất” – nhà thờ mà, tại đó ba hôm trước, cô dâu đã chính thức đưa tang bố mẹ, em trai và em gái mình. Tuy vậy, theo tường thuật của tờ Điện tín thì “Vere và Beverly lẽ ra dự định cưới nhau vào dịp lễ Giáng sinh. Giấy mời đã in, bố cô đã đặt trước ngày giờ với nhà thờ. Do tấn thảm kịch không ngờ tới và vì nhiều họ hàng từ các nơi xa đang ở đây, nên cặp trẻ tuổi đã quyết định làm lễ cưới vào thứ Bảy này.”

Lễ cưới kết thúc, họ hàng Clutter tản mát đi. Ngày thứ Hai, người cuối cùng trong đám họ rời Garden City, tờ Điện tín đăng ở trang nhất bức thư do ông Howard Fox ở Oregon, bang Illinois, anh trai của bà Bonnie Clutter viết. Sau khi ngỏ lời cảm tạ dân thị trấn đã rộng mở “trái tim và mái nhà” cho gia đình bị tổn thất, bức thư đã thành một lời xin khoan dung. “Có nhiều oán giận trong cộng đồng này (tức là Garden City),” ông Fox viết. “Tôi đã hơn một lần nghe nói rằng kẻ đó, một khi bị tìm ra, sẽ bị treo lên cái cây gần nhất. Xin đừng nghĩ như vậy. Việc kia đã làm rồi, lấy đi một mạng sống khác thì cũng chẳng thay đổi được gì. Thay vì vậy, chúng ta hãy tha thứ như Chúa sẽ bảo chúng ta. Giữ trong tim chúng ta mối oán thù là không phải. Kẻ làm việc kia sẽ thấy thật sự khó lòng mà sống với bản thân. Hắn chỉ được bình tâm tĩnh trí chừng nào hắn đến cầu xin lượng khoan hồng tha thứ của Chúa. Chúng ta chớ cản đường, thay vì vậy chúng ta hãy cầu nguyện cho hắn tìm được sự bằng an.”

Chiếc xe đỗ ở trên một mô đất cao, nơi Perry và Dick dừng lại ăn picnic. Đang trưa. Dick đưa ống nhòm nhìn quét một vùng xung quanh. Núi. Những con ó lượn trền vòm trời trắng. Một con đường bụi bặm uốn khúc vào rồi ra khỏi một ngôi làng trắng và bụi bặm. Hôm nay là ngày thứ hai hắn ở Mexico, và cho đến nay hắn yêu xứ này – kể cả thức ăn. (Lúc này hắn đang ăn một cái bánh ngô lạnh nhờn dầu). Chúng đi qua biên giới ở Laredo, Texas, sáng 23 tháng Mười một, qua đêm đầu tiên ở một nhà thổ tại San Luis Potosí. Chúng hiện đang cách Mexico City, nơi sắp tới của chúng, hai trăm dặm về phía Bắc.

“Biết tớ nghĩ gì không?” Perry nói. “Tớ nghĩ đã có một cái gì đó không hay với chúng ta. Làm cái việc chúng ta làm.”

“Làm cái gì?”

“Đi ra đây.”

Dick ném ống nhòm vào trong túi da, một cái hộp sang trọng mang mấy chữ đầu tên H. W. C. Hắn bực. Bực lắm. Cái chó gì mà Perry nó không câm mồm đi chứ nhỉ? Lạy Chúa, cứ kéo rê cái của nợ ấy đi theo thì được cái chó gì? Thật đáng bực. Đặc biệt từ khi đã nhất trí không nói tới cái của nợ đó nữa. Quên nó đi.

“Sẽ xảy chuyện không hay với những ai đã làm một việc như thế,” Perry nói.

“Loại tớ ra đấy nhé, bồ,” Dick nói. “Tớ là người bình thường.” Dick nói vậy, và quả thực ý hắn muốn nói vậy. Hắn nghĩ hắn là một kẻ đầu óc cân bằng, lành mạnh như bất kỳ ai – có thể thông minh hơn lũ trung bình một chút, đấy, thế thôi. Nhưng còn Perry – theo Dick thì có, có “một cái gì không hay” ở Perry Bé Bỏng. Ít nhất là thế. Mùa xuân năm ngoái, khi hai đứa chung xà lim ở Nhà tù Bang Kansas, hắn đã biết được phần lớn những cái quái đản ít tệ hại hơn của Perry. Perry có thể là “một thằng nhỏ như thế”, luôn đái ướt cả giường và kêu khóc khi ngủ (“Bố ơi, con tìm khắp nơi, bố ở đâu, bố ơi?”), và Dick thường thấy hắn “ngồi hàng giờ mút ngón tay cái ngâm cứu mấy quyển sách hướng dẫn chết bầm về các kho báu rởm”. Đó là một mặt; còn các mặt khác nữa. Ở một vài chỗ nào đó thằng cha Perry lại “kinh bỏ bố”. Lấy thí dụ, tính khí của hắn. Hắn có thể chợt trở nên cuồng điên “nhanh hơn cả mười thằng da đỏ say rượu”. Nhưng bạn còn chưa biết cái này. “Hắn có thể sẵn sàng giết bạn, nhưng bạn chẳng bao giờ biết đâu nhá, chớ nhìn chớ nghe,” Dick đã có lần nói thế. Bởi tuy cơn khùng ở bên trong có cực kỳ đến thế nào thì ở bên ngoài Perry vẫn cứ là một tay dữ dằn trẻ tuổi, lì lì, với con mắt bình thản và ngái ngủ. Đã có thời Dick nghĩ có thể kiểm soát, có thể điều chỉnh được nhiệt độ các cơn sốt lạnh bất thần đang hun đốt và làm run rẩy thằng bạn hắn. Hắn đã lầm, và kết quả của phát hiện này là hắn ngày càng thấy không thể đặt niềm tin vào Perry, không thể nắm chắc được hoàn toàn điều Perry nghĩ – trừ việc cảm thấy nên sợ Perry, và thầm nghĩ tại sao mình lại chưa thật sự sợ.

“Sâu ở bên trong tớ,” Perry nói tiếp, “sâu tới tận củ tỉ tớ, tớ không bao giờ nghĩ tớ lại có thể làm được như thế. Một cái việc như thế.”

“Về thằng mọi thì sao?” Dick hỏi. Im lặng. Dick nhận ra Perry đang nhìn mình chằm chằm. Tuần trước, ở Kansas City, Perry đã mua một cặp kính đen – cặp kính ngổ ngáo với hai cái gọng mạ bạc và tròng mắt thì phản chiếu như gương. Dick ghét cái cặp kính đó; hắn đã bảo Perry là hắn xấu hổ khi để người ta thấy hắn đi cùng với “một người đeo cái loại cổ quái này”. Thật ra, cái làm hắn khó chịu là đôi tròng kính; thật chả thú vị chút nào khi đôi mắt Perry giấu đằng sau cái khoảnh kín bưng mấy bề mặt nhuộm màu chiếu ngược lại mặt mình kia.

“Nhưng một thằng mọi,” Perry nói. “Thằng mọi thì khác.”

Lời bình đó, cái giọng miễn cưỡng dùng để thốt lời bình đó, khiến Dick hỏi, “Hay cậu giết theo kiểu đó? Giết theo kiểu cậu nói ấy?” Đây là một câu hỏi có ý nghĩa, vì mối quan tâm lúc đầu hắn dành cho Perry và đánh giá của hắn về tính cách cùng bản lĩnh ngầm của Perry là dựa trên câu chuyện Perry đánh một người da màu đến chết mà Perry có lần kể hắn nghe.

“Thì đúng thế. Có điều đấy là một thằng mọi. Không giống người khác.” Rồi Perry nói, “Cái gì thật sự làm tớ quạu, cậu biết không? Về chuyện kia á? Chỉ là vì tớ không tin chuyện đó – rằng bất cứ ai cũng có thể làm việc ấy mà rồi thoát được. Vì tớ không hiểu làm sao lại có thể vậy được. Làm cái việc chúng ta đã làm ấy. Rồi thì thoát êm trong khi cửa cho mình chỉ là một phần trăm. Tớ muốn nói điều đó làm cho tớ quạu – tớ không tài nào xua được khỏi đầu cái ý nghĩ là có chuyện gì đó sắp xảy ra.”

Tuy hồi bé có đi lễ nhà thờ, Dick vẫn không bao giờ “gần” được với đức tin nơi Chúa; hắn cũng chẳng bị phiền nhiễu vì những thứ mê tín dị đoan. Khác Perry, hắn không tin rằng gương vỡ có nghĩa là bảy năm bất hạnh, hay trăng non thoáng thấy trên kính cửa sổ là điềm báo có cái gì hung hiểm bên trong. Nhưng với linh giác sắc nhạy và ba vạ của mình, Perry đã đánh vào mối ngờ vực lâu bền của Dick. Cũng thế, Dick đã chịu đựng những lúc mà câu hỏi kia cứ quay đảo trong đầu hắn: liệu hai đứa chúng nó, “trung thực với Chúa, sẽ có thể thoát được sau khi đã làm những việc như thế không?” Thình lình, hắn bảo Perry, “Thôi, bây giờ thì nín đi nhá.” Đoạn hắn rồ máy lui xe ra khỏi mô đất. Đằng trước hắn, trên con đường ngập bụi, hắn nhìn thấy một con chó chạy thủng thẳng trong ánh mặt trời nóng ấm.

Núi non. Những con ó lượn tròn trên vòm trời trắng.

Khi Perry hỏi Dick, “Biết tớ nghĩ gì không?” hắn biết mình đang bắt đầu một cuộc trò chuyện sẽ làm Dick khó chịu, một cuộc trò chuyện mà vì lẽ đó hắn cũng nên tránh sớm. Hắn đồng ý với Dick. Sao cứ nói hoài chuyện đó? Nhưng hắn không thể lúc nào cũng chặn bản thân mình được. Những cơn suy sụp bại hoại vì tuyệt vọng xảy ra, những lúc hắn “nhớ lại mọi thứ” – cái ánh sáng màu xanh lơ nổ lòe trong một gian phòng tối, hai con mắt thủy tinh của một con gấu đồ chơi to tướng – và khi những tiếng nói, một ít lời lẽ đặc biệt bắt đầu giày vò tâm trí hắn: “Ôi, không! Ôi, làm ơn! Không! Không! Không! Không! Đừng! Ôi, xin đừng, làm ơn!” Cùng một vài âm thanh cứ vẳng trở lại – một đồng đô la bằng bạc lăn trên sàn nhà, bước chân đi ủng trên các bậc thang bằng gỗ rắn, và tiếng thở, tiếng hổn hển, tiếng hít vào điên rồ của một người bị cắt mất cuống họng.

Khi nói “Tớ nghĩ ắt sẽ có sự không hay với bọn mình,” Perry đang phải thừa nhận một điều mà hắn “ghét”. Dẫu gì thì cũng thật “đau đớn” khi nghĩ rằng mình có thể “không hẳn đúng” – nhất là nếu như dù có gì trục trặc đi chăng nữa thì cũng không phải lỗi tại mình mà do “mình sinh ra đã như thế rồi”. Nhìn gia đình hắn xem! Nhìn xem đã xảy ra những gì ở đó! Mẹ hắn, một bà nát rượu, đã bị chết ngạt trong đống nôn mửa của chính mình. Trong các con của bà, hai trai, hai gái, chỉ có đứa em gái, Barbara, là bước vào bình thường, lấy chồng, bắt tay gây dựng một gia đình. Fern, đứa chị, nhảy lầu từ cửa sổ một khách sạn ở San Francisco. (Perry từ đó cứ “cố tin là chị ấy trượt chân” vì hắn yêu Fern. Fern, “một người đáng yêu như thế”, “nghệ sĩ” như thế, một dân nhảy giỏi “kinh khủng” mà lại biết cả hát nữa. “Nếu chị ấy được chút may mắn thì với cái mẽ người và mọi thứ của mình, chị ấy đã có thể đến nơi nào đó, làm một ai đó.” Cứ nghĩ tới chuyện chị ấy đã leo lên thành cửa sổ rồi từ mười lăm tầng gác buông mình xuống thì thật là buồn.) Lại còn Jimmy, thằng con trai cả – một hôm đã khiến vợ phải đến nước tự sát rồi sau đó cũng tự giết mình luôn.

Rồi hắn nghe thấy Dick nói, “Loại tớ ra ngoài nhá, bồ. Tớ là thằng bình thường.” Có phải nghe cứ như đấm vào tai không? Nhưng không chấp, cho qua. “Sâu ở bên trong tớ,” Perry nói tiếp, “sâu tới tận củ tỉ tớ, tớ không bao giờ nghĩ tớ lại có thể làm nổi như thế. Một cái việc như thế.” Và ngay lập tức hắn biết mình đã hố: dĩ nhiên là Dick có thể trả lời hắn bằng cách hỏi, “Còn thằng mọi thì sao?” Khi hắn kể cho Dick nghe chuyện này, đấy là vì hắn đang muốn kết bạn với Dick, muốn Dick “kính trọng” mình, nghĩ hắn là một “tay cừ”, cũng “đàn ông ra trò” như kiểu hắn đã coi Dick là thế. Cho nên một hôm sau khi xem và tán một bài báo của Reader’s Digest có đầu đề “Bạn là một thám tử tính cách giỏi đến bậc nào?” (“Trong khi chờ trong phòng của nha sĩ hay nhà ga, bạn hãy thử nghiên cứu các dấu hiệu mà những người xung quanh để lộ ra. Chẳng hạn, xem cách họ đi. Kiểu đi chân cứng đờ có thể cho thấy một bản ngã cứng nhắc, không thỏa hiệp; kiểu đi lệt xệt thì là của người thiếu quyết tâm”). Perry đã nói, “Tớ luôn luôn là một thám tử dò tính cách thuộc hàng xuất sắc đấy, không thế thì hôm nay tớ chẳng còn đây. Giống như tớ không sao biết chắc khi nào mình có thể tin ai đó vậy. Cậu không nên tin nhiều. Nhưng tớ thì tớ đã đến chỗ tin cậu rồi đấy, Dick. Cậu sẽ thấy là tớ tin, vì tớ sắp trao cái thân tớ cho cậu chỉ huy. Tớ sẽ kể cho cậu những cái tớ chưa nói với ai bao giờ. Với Willie-Jay cũng không. Chuyện cái ngày tớ sửa một thằng.” Trong khi nói, Perry nhận thấy Dick chú ý; hắn đang lắng nghe thật. “Vụ đó cách đây hai mùa hè. Ở ngoài Vegas. Dạo đó tớ sống ở một nhà trọ cũ rích – nó vốn là ổ điếm cho người ta vui vầy tí tỉnh. Nhưng tất cả những sự vui vầy nhộn nhạo đã biến mất. Nơi này lẽ ra họ phải phá sập từ cả chục năm rồi; kiểu gì thì nó cũng sắp tự sụp xuống rồi. Những phòng rẻ nhất – sát mái, tớ sống ở trên đó. Thằng mọi cũng vậy. Tên nó là King; nó ở ngắn hạn thôi. Ở tít trên đó chỉ hai đứa tớ – hai chúng tớ và một triệu con cucaracha tức là gián ấy. King, thằng mọi không trẻ lắm, nhưng nó từng làm cầu đường và các thứ việc ở ngoài trời – nó đô con. Nó đeo kính và đọc nhiều. Không bao giờ nó đóng cửa. Lần nào đi qua, tớ cũng thấy nó nằm ngửa, trần như nhộng. Nó không có việc, bảo là nhờ làm ở cái chỗ sau cùng nó đã dành dụm được ít đô, bây giờ muốn nằm nghỉ ngơi ít bữa, đọc sách, tự quạt mát và uống bia. Các thứ nó đọc đều là đồ nhảm – truyện tranh và truyện cao bồi ba xu. Nó OK lắm. Thỉnh thoảng bọn tớ uống bia với nhau và có lần nó cho tớ vay mười đô la. Tớ chẳng có cớ gì để phạm đến nó. Nhưng một đêm, chúng tớ đang ngồi trên gác mái, trời nóng quá cóc ngủ được cho nên tớ mới nói, ‘Đi nào King, lên xe dông một lúc nào.’ Tớ có một cái xe đã lột bỏ hết mọi thứ, doa lại píttông cho chạy nhanh hơn rồi đem sơn màu bạc – Bóng Ma Bạc mà lại, tớ gọi nó vậy. Chúng tớ đi một đoạn dài. Ra tận ngoài sa mạc. Ngoài đó mát. Chúng tớ đỗ xe lại và uống thêm ít bia. King xuống xe và tớ cũng xuống theo nó. Nó không trông thấy tớ nhặt sợi dây xích lên. Chiếc xích xe đạp tớ vẫn cất ở dưới gầm ghế. Đến lúc đó, cho đến khi tớ làm, tớ thực sự chẳng hề nghĩ là tớ sẽ làm thế. Tớ quật ngang giữa mặt nó thế này. Kính nó vỡ tan, và cứ thế tớ đánh. Sau đó tớ chẳng cảm thấy gì nữa. Tớ để nó ở lại đó, và chẳng còn bao giờ nghe nói một lời nào đến nó. Có lẽ người ta không tìm ra nó. Chim cắt chúng nó ăn mất rồi cũng nên.”

Có một vài điều thật trong câu chuyện này. Như Perry nói, trong hoàn cảnh đúng như hắn kể, quả là hắn có biết một gã da đen tên King. Nhưng nếu gã ấy bây giờ mà chết thì đâu có phải do Perry; hắn chẳng hề giơ tay lên đánh một cái nào hết. Tất cả những điều hắn biết có lẽ là King hiện vẫn còn nằm trên giường tại một nơi nào đó, vừa tự quạt mát vừa uống bia.

“Hay là cậu đã giết? Giết như kiểu cậu nói với tớ ấy?” Dick hỏi.

Perry không phải là thằng nói dối có khiếu hay thằng bẻm mép; nhưng một khi hắn đã kể ra chuyện gì hư cấu rồi thì hắn thường lại hay bị mắc vào đó. “Tớ giết là cái chắc. Nhưng có điều đấy là một thằng mọi. Không giống nhau.” Và bây giờ thì hắn nói, “Cái gì thật sự làm tớ quạu biết không? Không, cái chuyện kia cơ? Chính là tớ không tin điều đó – tin rằng mình lại có thể thoát được sau khi làm cái trò kia.” Và hắn ngờ rằng cả Dick cũng chẳng tin. Vì ít nhất thì Dick phần nào cũng đã bị những lo âu thần bí về luân lý của Perry ám mất rồi. Vây nên mới nói: “Bây giờ thôi nha, bặt cái miệng đi.”

Cỗ xe lại đi. Ba chục mét ở đằng trước, một con chó chạy thủng thẳng dọc đường. Dick lạng vút xe tới. Đó là một con chó lai, già, dở chết, xương xẩu ọp ẹp và cóc cáy. Cú đập, khi con chó va vào xe, còn nhỏ hơn một cánh chim gây nên. Nhưng Dick hể hả. “Ôi cha cu cậu!” đó là câu hắn nói mỗi lần cho xe chẹt chết một con chó, một việc hễ có dịp thì hắn nhất định làm. “Ôi cha cu cậu! Chắc chắn là bọn mình đã cho nó nát bét rồi!”

Lễ Tạ ơn đã qua, mùa trĩ đã đến kỳ ngừng bắn, nhưng mùa hè da đỏ tươi đẹp với dòng lũ những ngày quang đãng, trong veo của nó thì chẳng ngừng. Nhà báo cuối cùng không phải dân thị trấn đã rời Garden City, tin chắc vụ án chẳng bao giờ giải được. Nhưng với người hạt Finney thì không có lẽ nào vụ án lại kết thúc, ít ra thì đó là ý nghĩ của những người làm chủ cái nơi tụ hội được ưa thích ở Holcomb, quán cà phê Hartman.

“Từ ngày xảy ra cơ sự kia, chúng tôi đã làm hết thảy những gì làm được,” bà Hartman nói, liếc nhìn quanh cái lãnh địa gọn gàng xinh xắn của bà, mỗi một mẩu của nó đều có các chủ trại, thợ làm mướn ở trại và người chăn gia súc sặc mùi thuốc lá, đứng hay ngồi hay dựa vào tường mà uống cà phê. “Đúng là một lũ mụ già,” người chị em họ với bà Hartman, bà chánh bưu điện Clare lúc đó tình cờ có mặt, nói. “Nếu là mùa xuân và thời vụ đã xong thì họ chẳng còn ở đây đâu. Nhưng mùa đông, mùa của lúa mì đang đến, họ chẳng có việc gì làm ngoài việc tụm lại ở đây mà dọa dẫm nhau. Bà biết Bill Brown không, ở tờ /i>Điện tín tận dưới ấy đấy? Xem xã luận hắn ta viết chưa? Cái bài hắn gọi là ‘Một tội ác khác nữa’ ấy? Viết, ‘Đã đến lúc mọi người nên cuốn cái lưỡi dài thòng lại, ngừng đồn nhảm đi.’ Bởi vì nói dối cũng là một tội ác. Nhưng bà trông chờ cái gì nào? Nhìn xung quanh xem. Rặt rắn đuôi chuông. Toàn đầu gấu. Những dân đồn thổi. Có thấy cái gì khác không nào? Ha! Chỉ được cái ra vẻ.”

Bắt nguồn từ quán cà phê Hartman, một lời đồn đại đã dính tới Taylor Jones, một chủ trại chăn nuôi mà cơ ngơi liền kề với Trại Lũng Sông. Theo ý phần lớn đám khách của quán, ông Jones và gia đình mới là nạn nhân bọn giết người nhằm vào, chứ không phải nhà Clutter. “Thế thì mới khó cãi hơn chứ,” một người giữ quan điểm này lập luận. “Taylor Jones, ông ta là người giàu hơn Herb Clutter xưa nay. Cứ coi như kẻ làm cái việc kia không phải là người ở quanh đây. Cứ coi như nó được thuê giết, tất cả những gì nó cần chỉ là mách lối cho nó vào nhà như thế nào. Chà, nhầm dễ như chơi ấy chứ – rẽ sai một cái là xong – và kết cục lại là Herb thay vì Taylor.” “Giả thuyết Jones” này được nhắc đến nhiều – đặc biệt là nhắc cho nhà Taylor, một gia đình được kính trọng và nhạy cảm nhưng họ không chịu để cho ai làm mình xáo xác vì chuyện đó.

Một quầy ăn trưa, mấy cái bàn, một gian “chuôi vồ” chứa một lò quay thịt, một tủ lạnh và một chiếc rađiô – quán cà phê Hartman có ngần ấy thứ thôi. “Nhưng khách của chúng tôi thích như thế,” bà Hartman nói. “Thích đến đây. Còn chỗ nào khác nữa mà đi.” Trừ phi phải lái xe một đằng bảy dặm và một đằng khác mười lăm dặm. Muốn gì, chúng tôi cũng đã mở ra được một chỗ hữu nghị thân tình mà cà phê thì ngon, từ khi Mabel đến làm ở đây.” – Mabel tức là bà Helm. “Sau thảm kịch kia, tôi nói, ‘Mabel à, bây giờ bà không có việc, tại sao không đến đỡ tôi một tay ở quán cà phê nhỉ. Trông nom tí bếp nước. Phục vụ ở ngoài quầy.’ Mới thành ra như hiện giờ đây – cái duy nhất không hay là ai đến cũng hỏi dồn hỏi dập bà ấy. Về cái thảm kịch kia. Nhưng Mabel đâu có như bà chị họ Myrt. Hay như tôi. Bà ấy nhát. Rồi lại chẳng biết cái gì đặc biệt cả. Chả hơn gì người khác đâu.” Nhưng dần dà cái hội Hartman kia cứ nghi tiếp rằng Mabel Helm có biết một hai điều nhưng bà giữ kín. Và đúng, quả có thế thật. Dewey trò chuyện với bà vài lần, đã yêu cầu giữ bí mật tất cả những gì hai người đã nói với nhau. Đặc biệt là không được hé răng về chiếc rađiô bị mất hay chiếc đồng hồ tìm thấy trong giày của Nancy. Cho nên bà đã nói với bà Archibald William Warren-Browne, “Ai đọc báo thì biết cũng như tôi thế thôi. Còn hơn ấy chứ. Vì tôi không đọc báo mà.”

Vuông phè, béo lùn, mới ngoài bốn chục, người đàn bà Anh này được trời phú cho giọng nói gần như là của tầng lớp trên, bà Archibald William Warren-Browne không giống chút nào với đám khách quen của quán cà phê, và, trong khung cảnh ấy, bà có vẻ như con công bị kẹt vào giữa một bãi thả gà tây. Một lần, giải thích với một người quen tại sao bà và chồng bà lại bỏ “nhà cửa đất đai của gia đình ở miền Bắc nước Anh”, đổi ngôi nhà thừa kế – “cái tu viện xinh nhất, ôi, xinh nhất” – lấy một nhà trại cũ rích chẳng đẹp đẽ gì ở trên bình nguyên miền Tây Kansas, bà Warren-Browne đã nói: “Thuế mà, bà bạn thân yêu ơi. Thuế chuyển vốn đi. Những khoản thuế đánh vào vốn chuyển đi thật là ghê gớm, giết người. Đó là điều đã đưa chúng tôi ra khỏi nước Anh. Vâng, chúng tôi ra đi năm ngoái. Chẳng hối tiếc gì. Không hề. Chúng tôi yêu nơi đây. Say mê mảnh đất này. Dĩ nhiên là rất khác với cuộc sống kia của chúng tôi. Cái cuộc sống mà chúng tôi quen thuộc ấy. Paris. Rome. Monte. London. Tôi có – thỉnh thoảng – nghĩ tới London. Ô, không, tôi không hẳn là nhớ đâu mà – cái nơi điên rồ ấy, không bao giờ có được một chiếc taxi, chỉ luôn lo xem mình nom mẽ thế nào. Về mặt tích cực thì không có đâu. Chúng tôi yêu nơi đây. Tôi cho là có một vài người – những ai biết quá khứ chúng tôi, cuộc sống chúng tôi đã có trước đây – nghĩ rằng chúng tôi phải chăng đã có một chút chút nào cô đơn, lẻ loi ở ngoài kia trong vùng đồng lúa mì. Tít ngoài miền Tây là nơi chúng tôi có ý đến an cư lạc nghiệp. Wyoming hay Nevada – la vraie chose, đích thị cái chỗ ấy. Chúng tôi hy vọng là khi đến đó chúng tôi sẽ có thể dò ra được một ít dầu lửa. Nhưng trên đường chúng tôi dừng lại thăm viếng bạn bè ở Garden City – bạn của bạn tôi, đúng ra là thế. Nhưng họ tốt quá, không ai trên đời có thể tốt hơn. Nài chúng tôi nấn ná lại. Và chúng tôi nghĩ, chà, tại sao lại không nhỉ? Tại sao không thuê một ít đất và bắt tay vào chăn nuôi? Hay làm trại canh tác. Một quyết định chúng tôi vẫn chưa ngã ngũ – chăn nuôi hay trồng trọt. Bác sĩ Austin hỏi liệu chúng tôi có thấy nó yên tĩnh quá không. Thật sự không. Chúng tôi thật sự chưa biết một cảnh hỗn loạn nào như thế bao giờ. Nó ầm hơn một trận máy bay ném bom. Còi xe lửa. Sói đồng cỏ. Những con quái vật cứ rền hú ghê rợn suốt đêm. Cảnh tượng hỗn độn khủng khiếp. Và từ sau vụ án kia, cái đó hình như lại càng làm tôi ưu phiền hơn. Nhiều việc cũng làm mình ưu phiền như vậy. Nhà chúng tôi – sao mà ngôi nhà cũ kỹ này nó lại kêu răng rắc như thế chứ! Bà lưu ý cho, tôi không ca cẩm phàn nàn đâu nhé. Thật mà, đó là một ngôi nhà hoàn toàn được việc – có đủ cả cái hiện đại lẫn cái chắc chắn – nhưng, ôi, sao mà nó ho hen và cẳn nhẳn thế cơ chứ! Và khi trời tối, khi gió bắt đầu thổi, cái gió đồng cỏ đáng ghét ấy, thì người ta nghe thấy những tiếng rên rỉ rợn người. Tôi muốn nói là nếu như yếu thần kinh một chút thì người ta không thể không tưởng tượng ra những điều vớ vẩn đâu. Chúa lòng lành! Cái gia đình đáng thương ấy! Không ạ, chúng tôi chưa gặp họ bao giờ. Tôi có một lần đã nhìn thấy ông Clutter. Ở Tòa nhà Liên bang.”

Đầu tháng Mười hai, chỉ trong một buổi chiều, hai người khách kiên định nhất của quán cà phê đã thông báo dự án cuốn gói rời bỏ không chỉ hạt Finney mà cả bang Kansas nữa. Người thứ nhất là một nông dân thuê đất làm việc cho Lester McCoy, một chủ đất Tây Kansas và là nhà kinh doanh nổi tiếng. Ông ta nói, “Bản thân tôi đã có một cuộc chuyện trò với ông McCoy. Cố làm cho ông ấy hiểu cái gì đang diễn ra ở ngoài kia tại Holcomb và quanh đây. Người ta không thể ngủ được ra sao. Vợ tôi không ngủ được và bà ấy không cho tôi ngủ. Cho nên tôi bảo ông McCoy là tôi thích chỗ của ông ấy lắm chứ chả phải không, nhưng tốt hơn ông ấy nên tìm người khác. Tôi tính chuyển đi. Xuống mạn Đông Colorado. Có lẽ chừng đó tôi mới có được chút nào yên tĩnh.”

Lời tuyên bố thứ hai là của bà Hideo Ashida, bà dừng chân ở quán cà phê cùng với ba trong bốn đứa con má đỏ của bà. Bà bảo chúng xếp hàng ở quầy rồi nói với bà Hartman, “Cho Bruce một hộp bích quy Jack. Bobby muốn một lon Coca. Thế nào Bonnie Jean? Cả nhà biết con cảm thấy thế nào rồi, Bonnie Jean, nhưng thôi nào, ăn uống gì đi.” Bonnie Jean lắc đầu, và bà Ashida nói, “Con bé này kiểu như là nó chán đây mà. Nó không muốn rời khỏi đây. Trường học ở đây. Tất cả bạn bè ở đây.”

“Nào, nói đi cháu,” bà Hartman nói, mỉm cười với Bonnie Jean. “Chẳng việc gì phải buồn. Chuyển từ Holcomb đến Trường Cao đẳng Garden City. Bọn con trai nhiều hơn…”

Bonnie Jean nói, “Bà không hiểu. Bố đem chúng cháu đi tuột. Đến Nebraska cơ.”

Bess Hartman nhìn mẹ nó, vẻ như chờ bà cải chính cái lý con bé viện ra.

“Đúng đấy Bess à,” bà Ashida nói.

“Tôi chẳng biết nói thế nào nữa,” bà Hartman nói, giọng sửng sốt có lẫn bất bình và ngán ngẩm. Nhà Ashida là một phần của cộng đồng Holcomb mà ai cũng mến – một gia đình dũng cảm, dễ thương, hay lam hay làm, thân thiện với láng giềng hàng xóm và hào hiệp, tuy họ chẳng có gì nhiều để mà hào hiệp.

Bà Asida nói, “Chúng tôi đã bàn chuyện đó lâu rồi. Hideo, ông ấy nghĩ là ở một chỗ nào khác chúng tôi sẽ khá hơn.”

“Ông bà định bao giờ đi?”

“Bán xong các thứ là đi luôn. Nhưng muốn gì cũng không thể trước Nôen. Vì chúng tôi còn phải làm một việc với ông nha sĩ. Về món quà Nôen của Hideo ấy mà. Tôi và lũ trẻ, chúng tôi biếu ông ấy ba cái răng vàng. Cho Nôen.”

Bà Hartman thở dài. “Tôi chẳng biết nói thế nào cả. Trừ việc bảo bà đừng. Cứ ra đi mà bỏ chúng tôi sao.” Lại thở dài. “Vẻ như chúng tôi đang mất hết mọi người. Mỗi người một nẻo.”