Chương 8

Máu Lạnh

Đăng vào: 11 tháng trước

.

Trong khi Perry tiếp tục sắp xếp và chọn lọc, cái chồng tài liệu hắn nghĩ là quá thân yêu khó thể nào chia tay với hắn, dù chỉ tạm thời thôi, đã cao lên ngất ngưởng. Nhưng hắn phải làm sao đây? Không thể liều để mất tấm huân chương Sao Đồng kiếm được trong chiến tranh Triều Tiên, hay tấm bằng tốt nghiệp trung học (do sở Giáo dục hạt Leavenworth cấp, kết quả của việc hắn bắt đầu lại ở trong tù sự học hành từng bị bỏ lâu ngày của hắn). Hắn cũng chẳng dám phó thác cho may rủi cái phong bì ních căng những ảnh là ảnh – chủ yếu của hắn, xếp theo thời gian, từ chân dung một chàng trai nhỏ bé xinh xắn chụp lúc hắn vào làm ở hạm tàu chở hàng (đằng sau bức ảnh hắn viết, “16 tuổi. Trẻ, tin tưởng vào vận may & Ngây thơ”) đến những bức mới chụp ở Acapulco. Và có đến năm chục thứ khác hắn quyết định phải mang theo, trong đó có những tấm bản đồ về các kho tàng, quyển ký họa của Otto, hai tập sổ tay dày, tập dày nhất là cuốn từ điển của riêng hắn, mục từ xếp không theo thứ tự chữ cái mà là một mớ các chữ hắn tin là “đẹp” hay “có ích”, hay ít nhất là “đáng ghi nhớ”. (Chẳng hạn: “Thanatoid = như chết; Omnilingual = có khiếu ngôn ngữ; Amerce = trừng phạt, do tòa định; Nescient = ngu dốt; Facinorous = tinh ma đến tàn nhẫn; Hagiophobia = sợ có tính bệnh hoạn những nơi hay vật thiêng liêng; Lapidicolous = sống ở dưới đá, như một số người mù hẳn; Dyspathy = thiếu cảm tình, thiếu cảm giác bè bạn; Psilopher = một kẻ muốn được coi như triết gia; Omophagia = tiệc ăn thịt sống, ở một số bộ lạc; Depredate = cướp, trộm, rình mò; Aphrodisiac = thuốc hay đại loại kích thích ham muốn tính dục; Megalodactylous = có ngón tay to dị thường; Myrtophobia = sợ đêm và bóng tối”.)

Bìa quyển sổ tay thứ hai, chữ viết trong ấy khiến hắn lấy làm tự hào lắm, một thứ chữ đầy những nét hoa mỹ quăn tít giống như của đàn bà, tuyên bố nội dung là “Nhật ký riêng tư của Perry Edward Smith” – miêu tả thế là sai, vì ít ra nó không phải nhật ký mà đúng hơn là một dạng hợp tuyển gồm các sự việc tối tăm (“Cứ mười lăm năm sao Hỏa lại đến gần hơn. Năm 1958 là năm gần”), các bài thơ và trích dẫn văn học (“Không ai là một hòn đảo cả”, “Toàn vẹn với bản thân”), và những đoạn trích dẫn hoặc diễn ý lại từ báo chí hay sách vở. Thí dụ:

Chỗ quen biết của tôi thì nhiều, bạn bè của tôi thì ít; những người thật sự hiểu tôi lại còn ít hơn.

Nghe nói đến một loại bả chuột mới ở thị trường. Rất mạnh, không mùi vị, hấp thụ hoàn toàn đến nỗi sau khi nuốt vào không thể tìm ra dấu vết trên cơ thể chết.

Nếu được mời lên diễn thuyết: “Tôi không thể nhớ mình sắp nói điều gì đây vì cuộc đời tôi – tôi không nghĩ rằng trước đây trong đời có khi nào tôi có quá nhiều người đến thế từng góp phần trực tiếp vào việc tôi đang vui, rất là vui đến thế này. Đây là một giây phút tuyệt vời, một giây phút hiếm hoi và tôi chắc chắn là hàm ơn. Cảm ơn các vị!”

Đọc bài báo lý thú số tháng Hai về Người với Người: “Tôi đâm chém để mở đường đến Hố Kim Cương.”

“Một người đang được hưởng tự do với tất cả các đặc quyền đặc lợi của nó thì gần như không thể nào nhận thức nổi tự do đó mà bị tước đoạt mất thì sẽ thế nào.” – Erle Stanley Gardner[9] nói.

[9] Nhà văn Mỹ nổi tiếng chuyên viết truyện hình sự.

“Cuộc đời là gì? Nó là ánh sáng của một con đom đóm trong đêm. Nó là hơi thở của một con trâu rừng trong tiết trời đông giá. Nó như là cái bóng râm nho nhỏ chạy trên mặt cỏ rồi mất tiêu đi trong ánh chiều tà.” – Crowfoot, thủ lĩnh da đỏ Blackfoot nói.

Đoạn ghi cuối cùng này bằng mực đỏ và được tô điểm bằng một đường viền những ngôi sao bằng mực xanh lá cây; nhà làm hợp tuyển đã muốn nhấn mạnh “ý nghĩa riêng tư” của nó lên. “Hơi thở của một con trâu rừng trong tiết trời đông giá” – cái đó gợi lên chính xác nhân sinh quan của hắn. Lo phiền làm gì? Có cái gì để mà “đổ mồ hôi sôi nước mắt”? Con người chẳng là cái gì hết, một làn sương mù, một bóng tối bị những bóng tối khác nuốt mất đi.

Nhưng mẹ kiếp, mày phải lo phiền đấy, phải tìm mánh, gặm cụt hết móng tay mày ra và lời nhắc nhở của ban giám đốc khách sạn: “SU DÍA TERMINA A LAS 2 P.M.” (“Ngày thuê kết thúc vào hai giờ chiều.”)

“Dick? Nghe tiếng tớ không?” Perry nói. “Sắp một giờ rồi.”

Dick đã tỉnh ngủ. Còn hơn cả tỉnh nữa; hắn và Inez đang làm tình. Tựa như tụng một bài kinh, Dick thì thào luôn mồm: “Có thích không, cưng? Có thích không?” Nhưng Inez, đang hút một điếu thuốc, cứ im lặng. Nửa đêm hôm trước, khi Dick đưa ả đến phòng và bảo Perry rằng ả sẽ ngủ ở đây, hắn tuy không tán thành song cũng bằng lòng nhưng nếu bọn họ tưởng rằng việc họ làm sẽ kích thích hắn hoặc hình như việc ấy chẳng hề “phiền toái” cho hắn thì bọn họ lầm to. Nói thế thôi, Perry cũng cảm thấy ái ngại cho Inez. Ả là một “con ranh ngu ngốc” – ả tin là Dick muốn lấy ả thật, không hề mảy may ngờ rằng hắn đang dự định rời Mexico ngay chiều hôm đó.

“Có thích không, cưng? Có thích không?”

Perry nói: “Nhân danh Chúa, Dick. Lẹ lẹ mà xong đi chứ, có nghe không đấy? Ngày của chúng ta hết vào lúc hai giờ chiều đấy.”

Thứ Bảy, Nôen đang đến gần, xe cộ lưu thông bò dọc theo Phố Chính. Kẹt trong dòng xe, nhìn lên những tràng hoa giấy mừng lễ giăng trên đường phố – các búi cây hội hè được trang hoàng bằng những quả chuông giấy màu đỏ tía – Dewey chợt nhớ là chưa mua một món quà nào cho vợ hay đứa con trai. Đầu óc ông đã tự động gạt đi những vấn đề không liên quan tới vụ án Clutter. Marie và nhiều bạn bè của họ đã bắt đầu nghĩ ngợi về tình trạng bị dính vào hoàn toàn này của ông.

Một người bạn thân, luật sư trẻ tuổi Clifford R. Hope, Jr., đã nói thẳng ra: “Al, anh có biết cái gì đang xảy ra với anh không đấy? Anh có nhận thấy anh không còn nói tới cái gì khác nữa không?” Dewey đáp, “À, nó là tất cả những gì tôi nghĩ tới bây giờ. Và biết đâu may ra chính trong lúc nói đến nó mà tôi sẽ bập được vào một cái gì trước đó tôi chưa nghĩ ra. Một góc độ mới nào đó. Hay có thể là anh nữa, anh sẽ nghĩ ra. Khốn nạn, Cliff à, anh thử tưởng tượng xem đời tôi nó sẽ ra sao nếu như việc này cứ nằm trong Hồ sơ Mở mãi? Nhiều năm nữa sau này tôi sẽ vẫn cứ lùng tìm các đầu mối, và mỗi khi có một vụ án mạng, một vụ ở bất cứ đâu trong nước dù là hẻo lánh như đây, tôi cũng vẫn sẽ can thiệp, lùng kiếm, xem xem liệu có thể có liên quan gì đó không. Nhưng không chỉ có thế. Thực chất là tôi đã đi tới chỗ cảm thấy mình hiểu Herb và gia đình ông ấy hơn cả nhà ấy hiểu chính họ. Tôi bị họ ám. E là tôi sẽ cứ bị ám như thế mãi. Cho tới khi nào tôi biết cái gì đã xảy ra.”

Việc Dewey vắt kiệt mình vào bài đố hóc búa này đã dẫn tới một trạng thái lú lẫn vốn xưa nay không có. Mới chỉ sáng hôm ấy Marie đã yêu cầu ông, xin, xin anh, xin anh đừng quên nhé… Nhưng ông lại không thể nhớ, hay đã không nhớ, cho tới khi ra khỏi được dòng xe ngày mua sắm Nôen, phóng nhanh dọc đường số Năm mươi đến Holcomb thì ông đã đi qua cơ sở thú y của bác sĩ I. E. Dale. Dĩ nhiên. Vợ ông đã dặn ông nhớ chắc chắn phải đem Tòa án Pete, con mèo của gia đình về. Pete là con mèo đực vằn hổ nặng bảy tám ký, một nhân vật được nhiều người biết ở Garden City, nổi tiếng vì cái tính gây gổ hiếu chiến, và đó chính là nguyên nhân của việc nó phải nằm bệnh viện mới đây; một trận đánh nhau với một con chó ngao đã khiến nó thua đau và bị những vết thương phải khâu nhiều mũi lẫn phải uống thuốc kháng sinh. Được bác sĩ Dale thả cho về, Pete an tọa trên hàng ghế trước xe ông chủ và khẽ gừ gừ suốt trên đường về Holcomb.

Nhà thám tử định đến Trại Lũng Sông, nhưng lại đang muốn một cái gì âm ấm – một tách cà phê nóng – nên liền đỗ lại ở quán cà phê Hartman.

“Hello, chào ông anh điển trai,” bà Hartman nói. “Tôi làm gì được cho ông đây?”

“Thưa bà, cà phê thôi.”

Bà rót một tách. “Tôi có lầm không nhỉ? Hay là ông sút đi mất nhiều cân?”

“Vài cân.” Đúng thế, trong ba tuần qua Dewey sụt mất sáu ký. Bộ áo quần của chính ông mà trông cứ như mượn của một người bạn vạm vỡ hơn, khuôn mặt của ông, vốn hiếm khi để lộ chút gì về nghề nghiệp của ông, bây giờ không còn kín đáo được như thế nữa; nó có thể là khuôn mặt của một người khắc khổ bị hút vào những cuộc đeo đuổi tăm tối.

“Ông cảm thấy sao?”

“Rất tốt.”

“Trông ông dễ sợ quá.”

Không thể chối được. Nhưng cũng không tồi tệ hơn các thành viên khác của KBI cùng làm việc với ông – các đặc vụ Duntz, Church và Nye. Chắc chắn là ông còn hơn Harold Nye tuy cúm và sốt nóng rề rề vẫn cứ đi làm đều đặn. Bốn con người mỏi mệt trong đám họ đã “kiểm tra” khoảng bảy trăm đầu mối và tin đồn. Chẳng hạn, Dewey bỏ hai ngày mệt nhoài và công cốc cố tìm ra dấu vết của cặp bóng ma kia, hai người Mexico mà ông Paul Helm thề là đã thấy đến thăm ông Clutter vào hồi chiều trước khi xảy ra các vụ giết người.

“Một tách nữa nhá, Alvin?”

“Cảm ơn bà, tôi không uống nữa.”

Nhưng bà đã cầm bình lên. “Đây là của nhà hàng mời, sếp ạ. Trông ông thế kia thì ông cần uống đấy.”

Ở một bàn trong góc, hai chủ trại chăn nuôi xài rượu uýtky đang chơi cờ vua. Một người đứng lên đi đến cái quầy Dewey ngồi. Ông ta nói, “Những gì chúng tôi nghe thấy có đúng không?”

“Còn tùy.”

“Vê cái gã ông bắt ấy? Lén vào nhà Clutter ấy? Hắn ta là kẻ chịu trách nhiệm duy nhất. Chúng tôi nghe nói thế.”

“Ông già ơi, tôi nghĩ là ông đã nghe lầm. Vâng, thưa ông, tôi nghĩ như thế đấy.”

Tuy trước đây Jonathan Daniel Adrian, từng bị giam ở nhà tù của hạt vì tội mang vũ khí không đăng ký, đã có một thời kỳ bị giữ biệt lập với tư cách bệnh nhân tâm thần ở bệnh viện Topeka của bang, nhưng dữ kiện mà các điều tra viên tập hợp được đã cho thấy trong vụ Clutter thì ông ta chỉ mắc mỗi cái lỗi là tò mò đen đủi mà thôi.

“Chà, nếu không phải hắn ta thì tại cái quái gì ông không thể tìm ra đúng cái đứa ấy? Tôi có cả một nhà toàn đàn bà sợ không dám vào buồng tắm một mình nữa đây này.”

Dewey đã quen với kiểu xúc phạm này; đó là một phần cũ xì trong cuộc sống của ông. Ông uống hết tách cà phê thứ hai, thở dài, mỉm cười.

“Mẹ kiếp, tôi không tán vui đâu. Tôi nói thật đấy. Tại sao ông không bắt ai đó đi? Ông ăn lương để làm cái đó cơ mà.”

“Thôi cái kiểu hèn hạ của ông đi,” bà Hartman nói. “Chúng ta cùng hội cùng thuyền cả. Alvin đang làm hết sức rồi.

Dewey nháy bà. “Thưa bà, bà bảo ông ấy cho. Và rất cảm ơn tách cà phê của bà.”

Người chủ trại chăn nuôi chờ cho con mồi của mình ra đến cổng mới bắn theo một loạt đạn giã từ: “Nếu ông lại ứng cử làm cảnh sát trưởng nữa thì xin cứ quên lá phiếu của tôi đi. Vì ông không có được nó đâu.”

“Thôi cái kiểu hèn hạ của ông đi được rồi đấy,” bà Hartman nói.

Trại Lũng Sông cách quán cà phê Hartman một dặm. Dewey quyết định đi bộ tới đó. Ông thích đi tắt qua cánh đồng lúa mì. Thường thường, ông vẫn một tuần hai lần đi dài dài trên miếng đất của ông, một mảnh đồng cỏ ông rất yêu và luôn hy vọng xây một ngôi nhà, trồng cây trồng cối, để cuối cùng thì sẽ vui đùa với cháu chắt mình ở đó. Đó là giấc mơ, song là giấc mơ mà vợ ông, giờ đây đã cảnh báo rằng bà chẳng còn mơ cùng ông nữa; bà bảo là sẽ chẳng bao giờ tính đến chuyện “ra ở tít ngoài đồng quê ấy” sống trơ một mình. Dewey biết ngay rằng dù cho ngày mai mình có bẫy được những kẻ giết người thì Marie cũng chẳng đổi ý – bởi đã từng có lúc số phận ghê rợn rơi vào những người bạn sống trong một ngôi nhà lẻ loi giữa đồng như thế kia rồi.

Dĩ nhiên, gia đình Clutter không phải là những người đầu tiên bị giết ở hạt Finney, hay ngay cả ở Holcomb. Những thành viên lâu đời của cái cộng đồng nhỏ bé này có thể nhớ lại “một chuyện man rợ” của hơn bốn chục năm trước – vụ Thảm sát Hefner. Bà Sadie Truitt, một người bảy chục tuổi đầu giữ chân thư tín viên của làng, mẹ của bà chánh bưu điện Clare, là chuyên gia về cái vụ có tính truyền thuyết này: “Tháng Tám, đúng, hồi năm 1920. Nóng sao mà nóng. Một tay tên là Tunif làm công ở trại chăn nuôi Finnup. Hắn, Walter Tunif, có một cái xe, thế nào hóa ra lại là của ăn cắp. Thế nào hóa ra hắn lại là một thằng lính ĐÀO NGŨ ở Fort Bliss, tít ngoài Texas kia. Hắn là một thằng đểu, quả nhiên là vậy, nhiều người đã nghi hắn. Thế là một tối, cảnh sát trưởng – ngày ấy là Orlie Hefner, một ca sĩ cừ như thế, các ông bà có biết ông ta ở trong dàn hợp xướng Heavenly không? Thế là một tối ông ấy mới đến trại Finnup để hỏi Tunif vài ba câu thẳng thừng. Ngày mồng 3 tháng Tám. Nóng sao mà nóng. Kết quả là Walter Tunif bắn xuyên tim ông cảnh sát trưởng. Ông Orlie tội nghiệp chết trước khi ngã xuống đất. Con quỷ làm cái việc đó liền tháo luôn một con ngựa của nhà Finnup chạy về phía Đông dọc theo sông. Tin lan đi, người ở hàng dặm quanh vùng liền lập ngay một đội dân vệ. Vào khoảng sáng hôm sau, họ bắt gặp được thằng kia; thằng Walter Tunif già. Nó không kịp có cả cơ may để chào các vị khỏe không. Vì đám dân vệ trai trẻ gần như đã điên hết. Họ cứ thế mà nhả đạn.”

Cuộc tiếp xúc đầu tiên của Dewey với trò quái ở hạt Finney xảy ra vào năm 1947. Câu chuyện được ghi trong hồ sơ của ông như sau: “John Carlyle Polk, người da đỏ Creek 32 tuổi, sống ở Muskogee, bang Oklahoma, đã giết Mary Kay Finley, phụ nữ da trắng, 40 tuổi, làm nghề hầu bàn sống ở Garden City. Polk đâm bà bằng cổ chai bia đập vỡ trong một gian phòng ở khách sạn Copeland, Garden City, bang Kansas, 9-5-47.” Một sự miêu tả ngắn gọn về một vụ án mở rồi đóng lại ngay. Trong ba vụ giết người khác mà Dewey điều tra từ ngày đó, hai vụ cũng đều dễ tìm ra như vậy (một đôi thợ hỏa xa ăn cắp và giết một chủ trại đã già, 1-11-52; một người chồng say rượu đánh và đá vợ đến chết, 17-6-56), nhưng vụ thứ ba, như có lần trong một câu chuyện Dewey kể lại, thì không phải là không có nhiều nét đặc sắc: “Tất cả bắt đầu từ Stevens Park. Nơi có một sân khấu biểu diễn âm nhạc, dưới sân khấu là phòng vệ sinh của đàn ông. Ừ, người đàn ông tên là Mooney ấy đang dạo quanh công viên. Ông ta ở đâu đó trên Bắc Carolina, chỉ là một người lạ mặt qua đường tạt vào thị trấn thế thôi. Đại khái ông ta đi vào nhà vệ sinh và một ai đó đi theo – một thằng thanh niên gần đó, Wilmer Lee Stebbins, hai mươi tuổi. Sau đó Wilmer Lee cứ khai là ông Mooney đã có một lời gợi ý trái tự nhiên với hắn. Và vì thế hắn đã ăn cắp tiền của ông Mooney, đánh ông ngã ra, đập đầu ông vào nền xi măng và rồi, còn sao nữa, khi đã đập đến như thế mà vẫn không kết liễu được mạng ông, hắn bèn ấn đầu ông vào chậu rửa mặt và giữ nước ngập cho đến khi ông chết ngạt. Có thể là thế. Nhưng không gì giải thích được phần sau của cách thức Wilmer Lee đã làm. Trước tiên, hắn chôn cái xác chết cách Garden City hai dặm về phía Đông Bắc. Hôm sau hắn đào lên rồi đem xuôi xuống phía ấy mười bốn dặm. À hà, nó cứ làm mãi như thế, chôn xuống lại đào lên đem đi chôn chỗ khác, cứ thế chôn đi chôn lại. Wilmer Lee hệt như một con chó tha cục xương của nó – hắn không để ông Mooney chết yên thân. Cuối cùng, hắn đào thêm một cái mộ nữa, thế là quá nhiều; có người đã trông thấy.” Xảy ra từ trước vụ bí mật nhà Clutter, bốn vụ trên đây là tổng số kinh nghiệm của Dewey về án mạng, và đem so chúng với cái vụ Dewey đang đối đầu bây giờ thì chúng là những đợt gió đi trước một cơn giông tố.

Dewey tra chìa khóa vào cửa chính của nhà Clutter. Trong nhà ấm, vì lò sưởi chưa vặn tắt và những gian phòng sàn đánh xi bóng nhoáng, thơm mùi chanh của xi, nom hình như chỉ là tạm thời không có người ở; tựa hồ hôm nay Chủ nhật và có thể bất chợt lúc nào đó gia đình xong lễ ở nhà thờ lại về thôi. Hai người kế thừa, bà English và bà Jarchow, đã đem đi một xe áo quần và đồ đạc, nhưng vẫn không làm bớt đi cái không khí vẫn có người ở của ngôi nhà. Trong phòng khách, một bản nhạc, “Đến qua vùng Rye”, để dựng mở trên nắp đàn piano. Trong gian sảnh, một chiếc mũ cao bồi màu xám ố mồ hôi – mũ của Herb – treo trên một cái mắc. Trên gác trong phòng Kenyon, trên cái giá đầu giường, tròng kính của cậu trai đã chết phản chiếu ánh sáng lóe lên.

Nhà thám tử đi từ phòng này sang phòng khác. Ông đã thăm thú khắp ngôi nhà nhiều lần; quả thực ông đến đây hầu như hằng ngày, và, theo nghĩa nào đó, có thể nói là ông đã thấy những dịp viếng thăm này có phần thú vị, vì không giống như nhà ông, hay văn phòng với cái ồn ào nhốn nháo của nó, chỗ này êm ả. Điện thoại, dây còn đứt kia, im lặng. Bầu tĩnh mịch rộng lớn của đồng cỏ xung quanh vây lấy ông. Ông có thể ngồi lên ghế xích đu của Herb ở trong phòng khách, vừa đung đưa rập rình vừa nghĩ. Một ít kết luận của ông không sao mà rũ bỏ đi được: ông tin rằng cái chết của Herb Clutter là mục tiêu chính của bọn sát nhân, động cơ là lòng căm thù bệnh hoạn có tính tâm thần hay có thể là một sự kết hợp giữa căm thù và ăn cướp, và ông cho rằng việc giết mấy người đã là một vụ làm ăn nhàn hạ của bọn sát nhân, với có lẽ khoảng hai đến bốn giờ trôi qua giữa mở đầu, vào nhà, kết thúc và đi ra. (Người khám nghiệm tử thi, bác sĩ Robert Fenton, đã báo cáo một chỗ khác nhau đáng chú ý về thân nhiệt của các nạn nhân, và trên cơ sở đó đã lập luận rằng trật tự giết là như sau: bà Clutter, Nancy, Kenyon, rồi ông Clutter.) Dựa vào những điều tin tưởng này, ông quả quyết là gia đình phải biết rõ lắm những kẻ đã hủy diệt họ.

Trong lần thăm này, Dewey đứng nghỉ một lúc ở bên một cửa sổ trên gác, sự chú ý của ông bị hút vào một vật ông nhìn thấy gần đó – một con bù nhìn ở giữa những cuống rạ lúa mì. Con bù nhìn đội cái mũ đi săn của đàn ông và cái váy băng vải calico in hoa đã bạc vì sương gió. (Chắc là một cái váy cũ của bà Bonnie Clutter?) Gió cuốn chiếc váy lên làm cho con bù nhìn lúc lắc, khiến nó trông có vẻ một người đang múa nhảy cô đơn giữa cánh đồng lạnh lẽo tháng Chạp. Và không biết sao, Dewey nhớ đến giấc mơ của Marie. Một sáng gần đây bà cho ông món điểm tâm lạ lùng với trứng tráng đường và cà phê pha muối, rồi đổ lỗi cho “một giấc mơ dớ dẩn” – một giấc mơ mà sáng trời rồi bà vẫn chưa thể xua tan được. “Nó y như thật ấy, anh Alvin,” bà nói. “Thật như cái bếp này. Em đứng ở đây. Ở trong bếp đây. Em đang làm bữa tối thì thình lình Bonnie đi qua cửa vào. Bà ấy mặc một cái áo ba lỗ bằng lông cừu angora màu lam, trông bà ấy thật dịu dàng và đẹp. Em nói, ‘Ô, kìa Bonnie… Bonnie thân yêu… Từ khi xảy ra cái chuyện kinh khủng kia đến giờ tôi chưa được gặp bà.’ Nhưng bà ấy không đáp lại, chỉ nhìn em bằng cái kiểu e dè của bà ấy thôi, và em chẳng biết nên làm thế nào nữa. Trong hoàn cảnh đó. Cho nên em nói, ‘Cưng à, lại xem tôi làm bữa tối cho Alvin sao nhé. Một bình xúp mướp tây. Nấu với tôm và cua biển tươi, sắp được rồi. Nào lại đây cưng, nếm thử xem.’ Nhưng bà ấy không, bà ấy đứng ở cửa nhìn em. Rồi – em không biết nói với anh thế nào cho đúng được nữa – bà ấy nhắm mắt lại, bắt đầu khe khẽ lắc đầu, rất chậm, xoắn hai tay vào nhau, rất chậm, rồi thì thầm hay khóc thút thít, cũng không rõ nữa. Em không hiểu bà ấy nói gì. Nhưng nó làm cho em xé lòng, em chưa cảm thấy buồn cho ai như thế bao giờ nên em liền ôm lấy bà ấy. Em nói, ‘Xin nào, Bonnie! Ô kìa, đừng, bạn thân yêu, đừng mà! Nếu như có ai đó được sẵn sàng đi đến với Chúa thì đó chính là bà, Bonnie.’ Nhưng em không an ủi được bà ấy. Bà ấy lắc đầu, vò siết hai tay lại và lúc đó em mới nghe thấy cái bà ấy nói. Bà ấy nói, ‘Bị giết. Bị giết. Không. Không. Không gì ghê gớm hơn được đâu. Không có gì ghê gớm hơn thế đâu. Không cái gì ghê gớm hơn thế đâu’.”

Giữa trưa và sâu trong sa mạc Mojave. Perry ngồi trên chiếc va li rơm mà thổi kèn mồm. Dick đứng bên xa lộ mặt đường đen nhánh, đường 66, mắt đăm đăm nhìn vào khoảng trống sạch không tì vết tựa hồ sức nhìn thành khẩn của hắn sẽ có thể bắt những người lái xe hơi phải hiện ra thành xương thành thịt vậy. Một ít đã hiện ra song chẳng ai dừng lại với những kẻ xin đi nhờ. Một lái xe tải chạy hướng Needles, California, đã cho đi nhưng Dick từ chối. Đó không phải là loại “quả ngon xơi” mà hắn và Dick muốn. Chúng đang chờ một người đi đường cô đơn nào đó ngồi trong một chiếc xe tươm tươm và có tiền ở trong ví – một người lạ mặt để trấn, bóp cổ rồi quẳng vào trong sa mạc.

Trong sa mạc, tiếng động thường đến trước hình ảnh. Dick nghe thấy tiếng rung ầm ầm của một chiếc xe đang lại gần nhưng chưa nhìn thấy. Perry cũng nghe thấy; hắn cho kèn vào túi, xách chiếc va li lên (cái này, hành lý duy nhất của chúng, căng phồng lên bởi sức nặng những kỷ niệm của Perry, cộng thêm ba cái sơ mi, năm đôi tất trắng, một hộp aspirin, một chai rượu tequila, kéo, một dao cạo râu an toàn và một bộ đồ lề sửa cắt móng tay; tất cả các của cải khác của hắn đã hoặc bị cầm cố hoặc để lại cho người chủ quán bar Mexico hoặc cho tàu thủy chở đến Las Vegas), rồi ra với Dick ở rìa đường. Chúng quan sát. Bây giờ chiếc xe đã hiện ra, to dần thành một xe du lịch Dodge màu lam với một người lái, một người gầy khẳng khiu, hói đầu. Tuyệt. Dick giơ tay lên vẫy. Chiếc Dodge chậm lại, và Dick đãi người lái xe một nụ cười hết cỡ. Chiếc xe gần như đỗ lại, nhưng không hẳn, người lái thò đầu ra ngoài cửa, nhìn chúng từ đầu đến chân. Cái ấn tượng chúng tạo ra cũng đủ làm người ta hết vía, thật sự (sau năm chục giờ ngồi xe buýt từ Mexico City tới Barstow, California, rồi một nửa ngày trời lăn lóc qua sa mạc Mojave, cả hai gã đi boóng xe đều râu ria, bẩn thỉu và trơ trụi). Chiếc xe lồng lên và phóng vội. Dick khum hai tay lại quanh mồm gọi to, “Mày là thằng chó đẻ, may cho mày đấy!” Rồi hắn phá lên cười, hất chiếc va li lên vai. Chẳng cái gì làm hắn tức tối được thực sự bởi vì, như sau này hắn kể lại, hắn “về lại với cái hay ho của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ thật là vui quá.” Dẫu sao, một người khác trong một chiếc xe khác cũng sẽ đến thôi.

Perry lấy kèn trong túi ra (cái mới có hôm qua, lấy cắp của một tiệm tạp hóa ở Barstow) thổi mấy nốt nhạc mở đầu của một cái đã trở thành “nhạc hành khúc” của chúng; một trong những bài hát Perry thích nhất và hắn đã dạy cho Dick hát được cả năm đoạn. Đều bước, vai sát vai, chúng đi dọc xa lộ, hát, “Mắt tôi đã nhìn thấy ánh hào quang của Chúa giáng lâm; Chúa đang giẫm bước lên cái vùng tàng trữ những chùm nho phẫn nộ.” Trong bầu im lặng của sa mạc, giọng trẻ khỏe của chúng ngân vang lên: “Quang vinh! Quang vinh! Lạy Chúa! Quang vinh! Quang vinh! Lạy Chúa!”