Chương 4

Máu Lạnh

Đăng vào: 11 tháng trước

.

… Tôi bị khép án 5 đến 10 năm tù giam vì ăn cắp lớn, bẻ khóa vào nhà ăn trộm và vượt ngục. Tôi cảm thấy mình bị xử rất bất công. Tôi càng trở nên chua chát hơn trong thời gian ở tù. Lúc được tha, đáng lẽ đi lên Alaska với bố thì tôi lại không đi – tôi làm việc ít lâu ở Nevada và Idaho – đi đến Las Vegas và tiếp tục ở Kansas rồi lâm vào tình cảnh như hiện nay. Không có thì giờ để nói thêm gì hơn nữa.

Hắn ký tên và viết thêm tái bút:

“Muốn được nói thêm với ông. Có nhiều điều tôi chưa nói song có thể sẽ làm cho ông quan tâm. Được ở với những người có một mục đích và ý thức dâng hiến để hoàn thành mục đích đó tôi luôn luôn cảm thấy rất mực phấn chấn vui vẻ. Tôi cảm thấy điều đó khi có mặt ông.”

Hickock không viết với sự mãnh liệt như người bạn đường của mình. Hắn thường dừng lại nghe người ta chất vấn một bồi thẩm có khả năng được tuyển chọn, hoặc nhìn vào những bộ mặt chung quanh – đặc biệt và với mối ác cảm rõ rệt là bộ mặt chắc nịch của ông chưởng lý hạt, Duane West, người cũng trạc tuổi hắn, hai tám. Nhưng bản khai của hắn, viết theo kiểu chữ bay bướm trông giống như làn nước mưa bay xiên, đã xong cả trước lúc tòa ngừng họp ngày hôm đó:

Tôi sẽ nói với ông tất cả những gì tôi có thể nói về tôi, tuy phần lớn đoạn đời trước của tôi đối với tôi thật lờ mờ – cho tới khoảng tôi mười tuổi. Những năm đi học, tôi hoàn toàn giống phần lớn các đứa trẻ trạc tuổi tôi. Tôi có dự phần vào chuyện đánh nhau, trai gái và các thứ khác vẫn thường xảy ra với một đứa con trai đang lớn. Đời sống gia đình cũng bình thường như tôi đã nói với ông trước đây, tôi rất khó được phép ra khỏi sân nhà mà đến chơi với các bạn. Bố tôi luôn luôn nghiêm với bọn con trai chúng tôi (em trai hắn và hắn) ở điểm này. Tôi cũng phải giúp bố tôi cả một lô một lốc những việc nhà… Tôi chỉ nhớ một lần bố mẹ tôi cãi nhau song không dẫn tới chuyện gì cả. Đó là cái gì ấy, tôi không biết… Một lần, tôi nhớ bố mua cho tôi một cái xe đạp và lúc ấy tôi là đứa trẻ kiêu hãnh nhất trong thị trấn. Nó là một cái xe con gái, bố đã đem đổi lấy xe con trai. Bố đem sơn lại hết và trông nó như mới. Nhưng hồi bé, tôi có nhiều đồ chơi, nhiều so với điều kiện tài chính của bố mẹ tôi lúc bấy giờ. Chúng tôi lúc nào cũng có thể thuộc loại mà ông sẽ gọi là nửa nghèo. Không bao giờ trắng túi nhưng nhiều phen cũng sát sạt chỗ ấy. Bố tôi là một công nhân chịu khó, làm hết sức để nuôi nấng chúng tôi. Mẹ tôi cũng là một người lao động chịu khó. Nhà bao giờ cũng gọn gàng và quần áo chúng tôi bao giờ cũng sạch sẽ. Tôi nhớ bố tôi quen đội mũ bằng may theo kiểu củ, bẹt, chùm đầu, ông hay bắt tôi đội nhưng tôi không thích… Ở trường cấp III tôi học rất tốt, năm đầu hay năm thứ hai đều được điểm trên trung bình. Nhưng rồi bắt đầu sút một ít. Tôi có một đứa bạn gái. Nó xinh xinh và tôi chưa bao giờ thử sờ vào nó bất kể thế nào, chỉ có hôn hít thôi. Một trò chim chuột thực sự trong sạch… Lúc đi học tôi tham gia mọi môn thể thao và được thưởng chín huy hiệu tất cả. Bóng chày, bóng bầu dục, bóng rổ, và các môn chạy. Năm cuối cùng là giỏi nhất. Tôi chưa bao giờ gắn bó với một cô gái, lúc nào cũng toàn chơi thể thao các thứ. Chính lúc đó tôi đã có quan hệ lần đầu tiên với một cô gái. Dĩ nhiên tôi nói với tụi con trai là tôi có cả đống con gái… Tôi được hai trường cao đẳng mời chơi bóng, nhưng tôi không bao giờ tham gia. Sau khi tốt nghiệp tôi đi làm ở đường sắt Santa Fe, ở lại cho tới mùa đông năm sau thì tôi bỏ. Mùa xuân tiếp đó tôi làm việc ở Công ty Ô tô Roark. Tôi làm ở đấy bốn tháng thì bị tai nạn khi đi xe của công ty. Tôi nằm bệnh viện nhiều ngày, bị thương ở đầu khá nặng. Trong khi đang lâm tình cảnh đó, tôi không thể tìm ra được việc làm khác, cho nên thất nghiệp gần hết mùa đông. Trong lúc đó, tôi đã gặp một cô gái và phải lòng cô. Bố cô ấy là mục sư dòng Báptít, rất là ghét thấy tôi đi với cô ấy. Chúng tôi lấy nhau vào tháng Bảy. Bố cô ấy lồng lên nhưng rồi khi biết tin con gái có mang thì đành dịu đi. Song ông vẫn không bao giờ cầu cho tôi được may mắn và chuyện cưới xin của tụi tôi vẫn luôn là đi ngược lại ý ông. Sau khi chúng tôi lấy nhau, tôi làm ở một trạm dịch vụ xe hơi gần Kansas City. Tôi làm từ tám giờ tối đến tám giờ sáng. Đôi khi vợ tôi ở lại trạm với tôi cả đêm – cô ấy sợ tôi không dậy để vào làm được nên tới giúp gọi tôi. Rồi tôi được nhận vào làm ở Perry Pontiac, tôi liền vui vẻ nhận. Rất là mãn nguyện, tuy tôi không kiếm được nhiều tiền – có 75 đô một tuần. Tôi hòa thuận với mọi người, được ông chủ mến. Tôi làm ở đó năm năm… Trong thời gian đi làm này tôi bắt đầu phạm phải có một số chuyện thấp hèn nhất.

Ở đây Hickock tiết lộ ra xu hướng thích quan hệ bậy bạ với trẻ con, và sau khi tả nhiều việc làm chứng, hắn viết:

Tôi biết thế là sai. Nhưng lúc đó, tôi chẳng bỏ công nghĩ xem thế là đúng hay sai gì. Với ăn cắp cũng vậy. Hình như đó là một dục lực ở trong ngưới. Có một việc về vụ Clutter tôi chưa khi nào nói với ông, nó là thế này. Trước khi tới nhà ấy, tôi đã biết có một cô gái ở đó. Tôi nghĩ lý do chính tôi đến đó không phải để trấn lột mà để hiếp cô gái. Vì tôi đã nghĩ nhiều đến chuyện đó. Đó là lý do tại sao tôi không khi nào muốn quay về một khi đã đến đó. Ngay cả khi tôi thấy không có két sắt. Tôi đã buông vài lời tán tỉnh cô con gái nhà Clutter. Nhưng Perry không cho tôi có dịp. Tôi hy vọng không ai biết chuyện đó trừ ông, cũng như tôi chưa khi nào kể cho luật sư của tôi. Có những việc khác tôi có thể nói với ông, nhưng tôi sợ người nhà tôi phát hiện ra. Vì tôi xấu hổ với bố mẹ và em (mấy vụ này thì tôi có xấu hổ thật) hơn cả bị treo cổ… Tôi đã bị bệnh. Tôi nghĩ vì cái tai nạn xe trước đây. Những cơn đau qua đi, song đôi khi tôi chảy máu cam và chảy máu tai trái. Tôi đã bị một lần ở nhà một người tên là Crist – họ sống ở phía Nam nhà bố mẹ tôi. Không lâu mới đây, tôi đã lấy ra được một mảnh kính vỡ trong đầu. Lấy nó ra ở khóe mắt tôi. Bố tôi giúp lấy ra… Tôi nghĩ tôi nên kể với ông những chuyện dẫn tới việc ly hôn, và những việc đã khiến tôi phải vào tù. Vụ đó bắt đầu vào đầu năm 1957. Hai vợ chồng tôi sống ở một căn hộ tại Kansas City. Tôi đã thôi làm ở công ty xe hơi mà mở một gara xe riêng. Tôi thuê cái gara của người đàn bà có cô con dâu tên là Margaret. Một hôm khi đang làm việc thì tôi gặp một cô, chúng tôi uống cà phê với nhau. Chồng cô ta ở thủy quân lục chiến, phải đi làm xa. Nói cho gọn lại, tôi bắt đầu đi chơi với cô ta. Vợ tôi đòi ly hôn. Tôi bắt đầu nghĩ có khi mình chưa bao giờ yêu vợ cả. Vì nếu yêu thì đã chẳng làm những cái chuyện như thế. Cho nên tôi không hề phản đối ly hôn. Tôi bắt đầu uống rượu và say xỉn gần như cả tháng. Tôi bỏ bê công việc, tiêu tiền nhiều hơn kiếm ra, viết séc giả và cuối cùng thì thành một thằng ăn cắp. Vì ăn cắp tôi đã vào tù… Luật sư của tôi nói tôi nên thành thật với ông vì ông có thể giúp tôi. Mà tôi thì cần giúp, ông biết đấy.

Ngày hôm sau, thứ Tư, là ngày phiên tòa chính thức bắt đầu; đó cũng là lần đầu tiên công chúng bình thường được cho vào phòng xử, một khoảnh quá nhỏ khó lòng chứa được một tỷ lệ phần trăm khiêm tốn của số người đứng đầy ở bên ngoài. Các chỗ tốt nhất được dành cho hai mươi nhà báo và những nhân vật đặc biệt như bố mẹ của Hickock và Donald Cullivan (theo yêu cầu từ luật sư của Perry Smith, anh này, với tư cách bạn lính cũ, đã đi từ Massachusetts tới để ra mắt như một nhân chứng về tính cách của Perry). Người ta đồn rằng hai cô con gái sống sót của Clutter sẽ có mặt; họ không có mặt hôm đó, cả các phiên sau cũng không. Đại diện gia đình Clutter là em trai ông – Arthur, ông đã đi hơn một trăm dặm tới đây. Ông nói với các nhà báo, “Tôi chỉ muốn nhìn cho rõ chúng nó (Smith và Hickock). Tôi chỉ muốn xem chúng là cái thứ súc sinh nào. Tôi cảm thấy ra sao ấy hả, tôi có thể xé xác chúng ra được ấy.” Ông ngồi ở ghế ngay sau các bị cáo và nhìn chúng trừng trừng không rời một giây, tựa hồ đang có kế hoạch khắc họa chân dung chúng bằng trí nhớ. Lúc này, hình như đúng là Arthur Clutter đang muốn như thế, Perry Smith đã quay lại nhìn ông – và nhận ra khuôn mặt giống hệt khuôn mặt của người mà hắn đã giết: cũng cặp mắt dịu dàng, đôi môi mím lại, cái cằm kiên định. Đang nhai kẹo cao su, Perry ngừng nhai; hắn cúi nhìn xuống, một phút trôi đi và quai hàm của hắn lại bắt đầu động đậy. Trừ lúc đó ra, Smith, và cả Hickock nữa, ở tòa chúng đều mang một thái độ vừa không phải phớt lờ tất vừa vô tư; chúng nhai kẹo cao su và uể oải giậm chân sốt ruột khi người ta mời nhân chứng đầu tiên.

Nancy Ewalt. Và sau Nancy là Susan Kidwell. Hai cô gái trẻ tả lại những gì mình nhìn thấy khi vào nhà Clutter hôm Chủ nhật 15 tháng Mười một: những gian buồng vắng lặng, một ví tiền rỗng không giữa sàn bếp, ánh nắng trong buồng ngủ, và bạn học của mình, Nancy Clutter nằm giữa vũng máu. Bên bị từ chối đối chất, một chính sách mà họ theo đuổi với ba nhân chứng sau nữa (bố Nancy Ewalt, Clarence, cảnh sát trưởng Earl Robinson và bác sĩ Robert Fenton, chuyên khám nghiệm tử thi những cái chết bất thường của hạt), mỗi người lại kể thêm vào cho dòng sự kiện hôm Chủ nhật tháng Mười một rực nắng đó: cuối cùng là việc phát hiện ra cả bốn nạn nhân, và lời thuật đã trông thấy họ thế nào, còn bác sĩ Fenton thì cho biết chẩn đoán lâm sàng về nguyên nhân tử vong: “Chấn thương nặng ở não và cấu trúc sọ trọng yếu do súng gây nên.”

Rồi Richard G. Rohleder lên bục.

Richard G. Rohleder là Trưởng Ban Điều tra của sở Cảnh sát Garden City. Ông mê ảnh và ông chụp giỏi. Chính ông đã chụp những bức mà khi rửa ra cho thấy những dấu chân bụi bặm của Hickock trong nhà kho Clutter, những dấu chân chỉ máy ảnh mới phân biệt được chứ mắt thường thì không. Và chính ông đã chụp các xác chết, những hình ảnh hiện trường thảm khốc mà Alvin Dewey không ngừng băn khoăn nghiền ngẫm khi án mạng còn chưa được phá. Điểm chính trong lời chứng của Rohleder là xác nhận mình đã chụp các ảnh kia, những bức mà bên khởi tố đề nghị đưa ra làm bằng chứng. Nhưng luật sư của Hickock phản đối: “Lý do duy nhất để đưa các bức ảnh ra là nhằm gây định kiến và hun nóng đầu các vị bồi thẩm lên mà thôi.” Thẩm phán Tate bác lời phản đối và cho phép đưa các bức ảnh ra làm bằng chứng, có nghĩa là phải đưa ra cho bồi thẩm đoàn.

Trong khi chuyện này đang diễn ra, bố Hickock nói với một nhà báo ngồi gần, “Ông thẩm phán trên kia kìa! Tôi chưa thấy ai định kiến như ông ấy. Mở phiên tòa thế này thật chẳng ra làm sao. Gì chứ cái ông ngồi trên đó thì không. Sao cơ, ông này là người khiêng áo quan ở đám tang đây mà!” (Đúng ra Tate chỉ quen sơ sơ các nạn nhân và không có mặt hôm đưa ma, với bất cứ tư cách nào.) Nhưng giọng ông Hickock là giọng nói duy nhất cất lên trong phòng xử án đã quá thừa lặng lẽ. Tổng cộng có mười bảy bức ảnh, và trong khi các bàn tay chuyền cho nhau xem thì vẻ mặt các vị bồi thẩm đã phản ánh tác động của chúng đối với các vị ra sao: má một vị đỏ ran lên như bị tát, một số ít, sau cái liếc nhìn đầu tiên đầy bối rối, rõ ràng là không còn bụng dạ nào tiếp tục nhiệm vụ được nữa; tựa hồ như mấy bức ảnh đã cạy con mắt trong đầu óc họ ra, buộc họ ít nhất cũng phải nhìn thấy cái sự thật thương tâm đã xảy ra cho một người láng giềng cùng vợ và con cái ông ta. Chúng làm họ kinh hoàng, chúng làm họ phẫn nộ và nhiều người trong họ – ông dược sĩ, ông giám đốc sân chơi bóng lăn – nhìn xói vào hai bị cáo với nét thù ghét tột độ.

Ông Hickock già yếu lắc đầu, lầm bầm đi lầm bầm lại: “Không ra làm sao cả. Mở phiên tòa thế này thật không ra làm sao.”

Về nhân chứng cuối cùng của ngày hôm nay, bên công tố hứa đưa ra một “người bí ẩn”. Đó là người đã cung cấp thông tin dẫn tới việc bắt được các bị cáo: Floyd Wells, bạn cùng xà lim trước đây của Hickock. Vì hắn vẫn còn hạn tù ở Trại giam Bang Kansas và có nguy cơ bị những tù nhân khác trả thù, nên người ta chưa bao giờ để lộ rằng Wells là người cung cấp thông tin. Bây giờ, để có thể làm chứng an toàn ở tòa, hắn đã được đưa ra khỏi trại giam và đem nhốt tại một trại giam nho nhỏ của hạt bên cạnh. Tuy thế, Wells vẫn đi qua phòng xử lên bục nhân chứng với vẻ lén lén lút lút lạ lùng – tựa hồ hắn sợ gặp phải trên đường đi một tên sát nhân vậy – và khi hắn đi qua Hickock thì môi Hickock rung rung như đang thì thào một câu độc địa. Wells làm như không thấy; nhưng giống như một con ngựa đã nghe thấy tiếng rung o o của con rắn đuôi chuông, hắn né vội ra. tránh gần với con người bị phản bội. Lên bục, hắn nhìn thẳng về đằng trước, một gã lẹm cằm nhỏ thó trông như cậu thiếu niên làm thuê nhăng nhít cho các nông trại, mặc bộ com lê rất tử tế màu lam sẫm do bang Kansas mua cho nhân dịp ra tòa – chính quyền bang muốn rằng nhân chứng quan trọng nhất phải có một cái vẻ đáng trọng thì mới được người ta tin.

Lời chứng của Wells, nhờ các cuộc ôn tập trước khi ra tòa mà rất chi hoàn hảo, cũng gọn sạch như dáng vẻ hắn hôm nay. Đươc các lời nhắc đầy thiện cảm của Logan Green cổ vũ, nhân chứng này nhận rằng mình đã có dạo làm thuê ở Trại Lũng Sông, trong khoảng một năm; hắn nói tiếp rằng mười năm sau đó, do bị dính án vì tội bẻ khóa ăn trộm, hắn đã thành bạn bè với một tên bẻ khóa ăn trộm phải vào tù khác, Richard Hickock, rồi miêu tả nông trại và gia đình Clutter cho gã nghe.

“Bây giờ,” Green hỏi, “trong các cuộc trò chuyện giữa ông và ông Hickock, hai ông đã nói những gì về ông Clutter?”

“À, chúng tôi nói về ông Clutter ít thôi. Hickock nói sắp được tha theo lời hứa, sẽ đi sang miền Tây tìm việc; có thể dừng lại gặp ông Clutter để hỏi xin việc làm. Tôi kể cho ông ấy nghe ông Clutter giàu có như thế nào.”

“Ông Hickock có chú ý tới cái đó không?”

“A, ông ấy muốn biết liệu ông Clutter có cái két nào trong nhà không.”

“Ông Wells, lúc đó ông có nghĩ có một cái két ở nhà ông Clutter không?”

“À, tôi làm ở đó đã lâu lắm rồi, tôi nghĩ có một cái két. Tôi biết có một cái tủ nho nhỏ loại ấy… Sau đó không hiểu thế nào mà ông ấy (Hickock) lại nói đến chuyện cướp nhà Clutter.”

“Ông ấy có nói với ông sẽ thực hiện vụ cướp như thế nào không?”

“Ông ấy bảo tôi nếu ông ấy làm cái gì kiểu như thế thì sẽ không để lại nhân chứng.”

“Ông ấy nói định làm gì với các nhân chứng không?”

“Có. Ông ấy bảo tôi là chắc chắn sẽ trói lại, lấy tiền rồi thủ tiêu họ.”

Đã có bằng chứng về mức độ mưu tính trước cặn kẽ đâu ra đấy như vậy rồi, Green nhường bục nhân chứng cho bên bị. Già Fleming, một luật sư cổ điển vùng quê vốn thích chiến tích trong các vụ đất cất hơn là trong các vụ khó nhằn, mở đầu cuộc đối chất. Dụng ý chất vấn của ông, như ông nhanh chóng quyết định, là nêu ra một vấn đề mà bên công tố đã cố tình tránh đi: vấn đề vai trò của chính Wells trong âm mưu giết người này cùng với trách nhiệm đạo đức của bản thân hắn.

“Ông,” Fleming nói, đi vội ngay vào trung tâm vấn đề, “ông đã không nói gì với ông Hickock để làm ông ấy nản lòng mà đừng đến đó ăn trộm và giết gia đình Clutter ư?”

“Không. Nếu ở trên đó (Nhà tù bang Kansas) mà có ai nói với mình chuyện gì như thế, mình chả để ý làm gì vì mình nghĩ họ chỉ là nói chơi thôi.”

“Ông muốn nói là ông kể lại như thế mà không có ngụ ý gì cả ư? Chẳng phải ông có chủ định gài cho ông ấy (Hickock) cái ý rằng Clutter có một cái két sao? Ông muốn ông Hickock tin thế là thật, đúng không?”

Bằng cung cách êm ả của mình Fleming đang làm cho nhân chứng lao đao; Wells dứt dứt cà vạt, tựa như cái nút thắt thình lình chặt quá.

“Và ông đã ngụ ý cho ông Hickock tin rằng ông Clutter có nhiều tiền, có phải thế không?”

“Tôi đã bảo ông ấy là ông Clutter có nhiều tiền, đúng.”

Một lần nữa Fleming moi cho Wells phải kể ra là Hickock đã kể cho anh ra đầy đủ về các kế hoạch tàn bạo đối với gia đình Clutter như thế nào. Rồi, như nén đi một nỗi đau riêng, luật sư đăm chiêu nói, “Rồi ngay cả khi đã nghe hết thế rồi ông vẫn không can ngăn ông ấy?”

“Tôi không tin là ông ấy sẽ làm chuyện đó mà.”

“Ông không tin. Thế tại sao, khi nghe chuyện đã xảy ra ở đây, ông lại nghĩ ông ấy chính là thủ phạm?”

Wells đáp lại, tự đắc, “Vì nó đã được làm đúng như ông ấy nói là định làm mà.”

Harrison Smith, người trẻ hơn trong đội ngũ bên bị ra đòn. Làm bộ hung hăng ngạo mạn song xem ra thì hơi gượng gạo, vì sự thật ông ta là người hiền lành hòa nhã, ông luật sư hỏi nhân chứng có biệt hiệu nào không.

“Không, tôi chỉ là ‘Floyd’ thôi.”

Luật sư khịt khịt mũi. “Họ không gọi ông là ‘Đứa mỏng môi’ à? Hay họ có gọi ông là ‘Gã mách lẻo’ không?”

“Tôi chỉ là ‘Floyd’ thôi,” Wells nhắc lại, khá là ngượng.

“Ông đã ở tù bao nhiêu lần rồi?”

“Chừng ba lần.”

“Có lần vì nói dối, phải không?”

Phủ nhận điều này, nhân chứng nói một lần vào tù vì lái xe không có bằng lái, bẻ khóa ăn trộm là lý do vào tù lần thứ hai, lần thứ ba thì bị giam chín mươi ngày trong trại giam lính, kết quả của một vụ xảy ra khi hắn còn tại ngũ: “Chúng tôi đi tuần trên một đoàn tàu. Tôi bị ngạt thở ở trên tàu, có bắn hơi nhiều tí chút vào cửa sổ và bóng đèn.”

Mọi người cười ầm; trừ các bị cáo (Hickock nhổ lên sàn) và Harrison Smith lúc bấy giờ đang hỏi Wells tại sao sau khi biết tin tấn thảm kịch ở Holcomb lại còn lần lữa mấy tuần mới báo nhà chức trách điều mình biết. “Phải chăng ông chờ đến khi có một cái gì đó phải không? Một giải thưởng chẳng hạn?”

“Không phải.’’

“Ông không nghe nói đến phần thưởng gì cả à?” Luật sư có ý nói đến món tiền một nghìn đô la của báo Tin tức Hutchinson thưởng; cho thông tin nào dẫn tới việc bắt và xét xử được những tên giết người trong vụ Clutter.

“Tôi có đọc thấy trên báo.”

“Trước khi ông đi báo cho nhà chức trách phải không?” Và khi nhân chứng thừa nhận thì Smith đắc thắng hỏi tiếp, “Hôm nay ông đến đây làm chứng thì ông chưởng lý hạt cho ông loại miễn giảm nào?”

Nhưng Logan Green phản đối: “Chúng tôi phản đối hình thức của câu hỏi, thưa Quý tòa. Không hề có bằng chứng về sự miễn giảm cho ai.” Lời phản đối được ủng hộ và nhân chứng được cho xuống; khi hắn rời khỏi bục Hickock nói cho tất cả những ai ở trong tầm nghe chung quanh hắn, “Thằng chó đẻ. Ai phải bị treo cổ thì chính là nó. Nhìn nó xem. Sắp đi ra khỏi đây lĩnh món tiền kia và lại được miễn thuế nữa cơ đấy.”

Lời tiên đoán tỏ ra là đúng, vì không lâu sau đó Wells vừa được tiền thưởng lại vừa được tha theo lời hứa. Nhưng vận hội của hắn chẳng được mấy hồi. Hắn lập tức lại dính phải lôi thôi và phải chịu nhiều nỗi truân chuyên trong nhiều năm ròng. Bây giờ hắn đang có hộ khẩu ở Nhà tù Bang Mississippi tại Parchman, Mississippi, hắn chịu án tù ba chục năm vì cướp có vũ khí.

Thứ Sáu, khi tòa nghỉ cuối tuần, chính quyền bang đã hoàn tất vụ án, gồm có cả việc ra mắt đặc vụ của Cục Điều tra Liên bang ở Washington. Những người này, các kỹ thuật viên thành thạo trong nhiều phạm trù thuộc lĩnh vực điều tra tội phạm bằng khoa học, đã nghiên cứu các bằng chứng vật lý khả dĩ liên hệ được những người bị kết án với vụ giết người (mẫu máu, dấu chân, vỏ đạn, dây thừng và băng dính), mỗi người đều đã chứng minh giá trị pháp lý của các bằng chứng trưng bày. Cuối cùng bốn nhân viên KBI cung cấp nội dung thẩm vấn các tù nhân cũng như lời thú tội cuối cùng chúng đã đưa ra. Khi đối chất với người bên KBI, các luật sư bên bị, một cặp kết lại thành bè, lập luận rằng bên khởi tố đã dùng những cách thức không chính đáng để đạt được lời thú nhận phạm tội của bị cáo – lấy cung thô bạo ở trong những buồng kín bưng, nóng như cái lò và chói ánh đèn. Cái cớ được viện ra này, vốn không đúng, làm các thám tử nổi đóa lên. Họ đưa ra những lời giải thích rất thuyết phục phủ nhận lại. (Sau này, trả lời một phòng viên hỏi ông tại sao ông cứ nhằng nhẵng bám lấy cái mùi giả tạo ấy làm gì lâu quá thế, luật sư của Hickock độp lại, “Thế thì tôi phải làm cái gì đây? Quỷ thật, tôi phải chơi mà chẳng có được lấy một quân bài nào. Mà tôi lại không thể ngồi ườn ra đấy như một thằng bù nhìn được. Tôi phải nói gì đó chứ”).