Chương 7

Máu Lạnh

Đăng vào: 12 tháng trước

.

Dick chờ, ăn vài cái kẹo dẻo hạt đậu, sốt ruột rồ máy, bấm còi. Có thể hắn đã đánh giá sai tính cách Perry chăng? Cái thằng Perry, trong cả lũ, đang lên một cơn “sôi máu” thình lình chăng? Một năm trước, khi gặp nhau lần đầu tiên, hắn đã nghĩ Perry là “một tên tử tế” – nếu không có lúc hơi “phét lác về mình”, “đa sầu đa cảm” và “quá ư mơ mộng”. Hắn mến nhưng không coi Perry là một cái gì đáng vun đắp đặc biệt, cho đến hôm Perry tả lại một vụ giết người, kể lại đơn giản rằng “chẳng vì cái khỉ gì” mà hắn đã giết một người da màu như thế nào ở Las Vegas – đánh cho đến chết bằng một cái xích xe đạp. Câu chuyện nâng cái nhìn của hắn về Perry Bé Bỏng lên; hắn bắt đầu nhìn thấy nhiều cái hơn ở Perry, và, giống như Willie-Jay, tuy vì những lý do khác nhau, dần dần hắn quả quyết rằng Perry có những phẩm chất khác thường và đắt giá. Nhiều kẻ sát nhân, hoặc những kẻ khoe từng giết người hoặc có ý muốn giết người đã đi vào Lansing; nhưng Dick bắt đầu đinh ninh rằng Perry chính là của hiếm kia, “một tên sát nhân thiên bẩm” – tuyệt đối lành mạnh, nhưng vô ý thức, có khả năng làm nên những án mạng lì lợm nhất, không chút ghê tay, có hoặc không có động cơ gì hết. Lý thuyết của Dick là một năng khiếu như thế có thể được khai thác có lợi, dưới sự xét duyệt của hắn. Đi tới kết luận này, hắn đã giở trò tán Perry, phỉnh hắn – chẳng hạn nói rằng mình tin tất cả mấy cái chuyện kho tàng chôn giấu, chia sẻ khát vọng sục tìm bờ biển và niềm thích thú cảng biển, những cái chẳng hề hấp dẫn Dick, Dick mong muốn “một cuộc sống chỉn chu có công ăn việc làm, một ngôi nhà, một con ngựa để cưỡi, một chiếc xe hơi mới và nhiều nhiều bồ nhí tóc vàng”. Nhưng quan trọng là Perry không nghi ngờ điều đó – không nghi ngờ cho đến khi sau này, với năng khiếu của mình, Perry đã giúp tham vọng của Dick thành sự thật. Nhưng có lẽ chính Dick đã tính sai, đã bị lừa; nếu thế – nếu rốt cuộc Perry chỉ là “một tên du côn tầm thường” – thì “cuộc kết bè” sẽ chấm dứt, những tháng bày mưu tính kế coi như mất toi, chẳng còn gì để làm ngoài việc quay gót chuồn. Cái đó chắc không xảy ra; Dick quay lại trạm xăng.

Cửa nhà vệ sinh đàn ông vẫn cài chặt. Hắn đập mạnh: “Nhân danh Chúa, Perry ơi!”

“Một phút nữa.”

“Sao vậy? Cậu ốm à?”

Perry bám lấy gờ chậu rửa kéo mình đứng lên. Chân hắn run rẩy; chỗ đầu gối đau làm hắn toát cả mồ hôi. Hắn lau mặt bằng giấy vệ sinh. Hắn mở chốt cửa rồi nói, “OK. Nào, đi!”

Phòng ngủ của Nancy là phòng bé nhất, có sắc thái nhất trong nhà – có dáng vẻ con gái, nhẹ bay như váy ngắn vũ nữ ba lê. Tường, trần và mọi thứ khác, trừ một bàn giấy và một bàn viết, đều màu hồng, lam hoặc trắng. Cái giường trắng và hồng, xếp những gối lam, bị một con gấu bông lớn màu hồng và trắng chế ngự – một giải thưởng mà Bobby giật được ở chợ phiên hạt trong trò chơi bắn súng. Một bảng tin bằng gỗ bần, sơn hồng, treo trên một bàn phấn viền trắng; những bông hoa dành dành khô, thứ sót lại của vài nhành hoa gài trên ngực áo, được buộc vào đó, rồi thì những thiệp cũ, mẩu báo cắt, các ảnh chụp thằng cháu bé và Susan Kidwell, Bobby Rupp, Bobby chụp khi đang làm hàng chục hành động – vung gậy bóng chày, rê bóng rổ, lái máy kéo, lội sông, mặc quần tắm ở đầu hồ McKinney (ra xa hết mức cậu ta dám, vì cậu ta không biết bơi). Có cả ảnh cô và Bobby chụp chung. Trong đó, cô thích nhất bức chụp hai người ngồi trong ánh sáng loang lổ bóng lá cây giữa những thứ còn lại của bữa picnic và nhìn nhau với cái vẻ như đùa cợt đầy thú vị, tuy không cười. Các ảnh khác chụp những con ngựa con mèo nay đã chết nhưng không bị lãng quên – như “Boobs tội nghiệp”, chết mới đây và một cách bí ẩn nhất (cô ngờ là bị đánh bả), để ngập bàn làm việc của cô.

Nancy bao giờ cũng là người cuối cùng trong nhà đi nghỉ; như cô đã có lần nói với người bạn và là cô giáo dạy nữ công, bà Polly Stringer, những giờ nửa đêm là “thì giờ dành cho một mình em và vô dụng”. Lúc đó cô mới đi cho hết cái lệ bộ giữ gìn sắc đẹp, nghi thức tẩy da, thoa kem, vào tối thứ Bảy thì còn thêm cả gội đầu, Đêm nay, sấy khô và chải mượt tóc, buộc tóc vào một băng vải ga mỏng xong, cô lấy ra quần áo cô định mặc đi nhà thờ sáng hôm sau: tất ni lông, giày đen, một chiếc váy bằng vải nhung đỏ – cái váy cô thích nhất vì chính cô may lấy. Đó là cái váy cô mặc lúc đem chôn.

Trước khi đọc kinh, cô luôn ghi vào nhật ký ít việc xảy ra (“Mùa hè đây rồi. Mãi mãi, tôi hy vọng. Susan đến và chúng tôi cưỡi con Babe xuống sông. Susan thổi sáo, Đom đóm”) và một sự bộc phát hãn hữu (“Tôi yêu anh ấy, yêu”). Đó là một quyển nhật ký ghi suốt năm năm trời; trong bốn năm của cuộc đời nó không ngày nào cô quên ghi, tuy mức huy hoàng của vài sự kiện (đám cưới Eveanna, ngày sinh đứa cháu trai) và nỗi sầu muộn của những sự kiện khác (“Cuộc cãi cọ đầu tiên THẬT SỰ của cô với Bobby” – một trang đúng là hoen ố nước mắt) đã khiến cô chiếm đoạt mất chỗ vốn dành cho tương lai. Một loại màu mực khác chỉ rõ mỗi năm: 1956 màu lục còn 1957 là một dải băng đỏ, năm sau được thay bằng màu oải hương nhạt, còn giờ, 1959, cô đã quyết định cho nó màu lam trang trọng. Nhưng giống như trong mọi dịp biểu thị, cô vẫn tiếp tục vụng về nắn nót chữ viết, cho nó ngả sang phải hoặc sang trái, cho nó tròn hay nhọn, lòng thòng dính nhau hay có râu móc – tựa như cô đang nói: “Đây là Nancy ư? Hay cái này? Hay cái kia? Cái nào là tôi?” (Một lần bà Riggs, cô giáo tiếng Anh trả lại bài văn của cô với một lời bình bằng chữ tháu: “Tốt. Nhưng tại sao lại viết thành ba kiểu chữ thế này?” Nancy đã trả lời: “Vì em chưa đủ trưởng thành để thành người có kiểu chữ viết riêng.”) Tuy nhiên, trong mấy tháng gần đây cô tiến bộ lên dần, cô đã viết những dòng sau đây với nét chữ bắt đầu cho thấy đang dần có sự chững chạc trưởng thành, “Jolene K. đến và tôi đã bảo em làm bánh anh đào như thế nào. Tập nhạc với Roxie. Bobby ở đây và chúng tôi xem ti vi. Về lúc mười một giờ.”

“Đây rồi, đây rồi, phải là nó đây rồi, nhà trường này, gara xe hơi này, bây giờ thì rẽ xuống phía Nam nào.” Với Perry thì tựa như Dick đang lẩm nhẩm những câu thần chú líu ríu. Chúng rời xa lộ, phóng nhanh qua Holcomb vắng ngắt, băng qua đường xe lửa Santa Fe. “Ngân hàng, chắc phải là ngân hàng, bây giờ ta rẽ về phía Tây – thấy mấy cái cây không? Đây, chắc là đây.” Đèn pha xe mở lối giữa những cây du Tàu ở hai bên; những đùm lá ké bị gió thổi rụng hấp tấp lăn ngang qua. Dick tắt đèn xe, đi chậm lại, và dừng cho tới khi mắt hắn đã quen với bóng đêm có trăng chiếu sáng. Lúc này, chiếc xe đang bò lên phía trước.

Holcomb ở cách mười hai dặm về phía Đông của ranh giới múi giờ miền núi, một hoàn cảnh gây ra đôi điều khó chịu rầy rà bởi như thế có nghĩa là vào bảy giờ buổi sáng, còn mùa đông thì vào tám giờ hay muộn hơn, trời vẫn còn tối và sao, nếu có, vẫn còn đang lấp lánh – như chúng đang lấp lánh lúc này khi hai đứa con trai nhà Vic Irsik đến làm tạp dịch sáng Chủ nhật. Nhưng chín giờ, lúc hai đứa đã làm xong việc – khi đang làm chúng không nhận thấy có gì khác thường – thì mặt trời mọc, đem lại một ngày khác nữa của mùa săn trĩ đang kỳ hoàn hảo.

Khi hai đứa rời đò mà chạy trên con đường vào nhà, chúng vẫy một chiếc xe hơi đang đi tới, và một cô gái vẫy trả lại. Cô là bạn học cùng lớp của Nancy Clutter, tên cũng là Nancy – Nancy Ewalt. Cô là con một của người lái chiếc xe, ông Clarence Ewalt, một chủ trại tuổi trung tuần trồng củ cải đường. Ông Ewalt, bản thân không phải là người mộ đạo, vợ ông cũng vậy, nhưng mỗi Chủ nhật ông lại thả con gái xuống Trại Lũng Sông để cô đi cùng với nhà Clutter đến lễ ở nhà thờ Giám lý tại Garden City. Cách thu xếp này tránh cho ông phải “làm hai chuyến đi về thị trấn”. Ông có thói quen chờ cho tới khi con gái đã được nhận vào nhà an toàn. Là cô gái sành ăn mặc với dáng vẻ của ngôi sao màn bạc, một vẻ mặt như người đeo kính cận, nghiêm trang, và kiểu đi lê rón rén ngón chân, Nancy băng qua bãi cỏ và bấm chuông cửa trước. Ngôi nhà có bốn cửa vào, thấy gọi mãi không ai thưa, cô đi sang cửa cạnh đó – cửa vào phòng làm việc của ông Clutter. Ở đây cửa hé mở một phần; cô mở rộng thêm một ít – đủ để biết chắc là phòng làm việc chỉ đầy bóng tối và bóng tối – nhưng cô nghĩ nhà Clutter sẽ không thích lối “nhào thẳng vào” của mình. Cô đập, bấm chuông rồi cuối cùng thì đi vòng ra đằng sau nhà. Gara ở đây, cô để ý thấy cả hai chiếc xe đều ở trong: hai chiếc Chevrolet kiểu du lịch. Điều đó có nghĩa là họ phải ở nhà. Tuy vậy, sau khi bấm chuông cánh cửa thứ ba, cửa dẫn vào “phòng dụng cụ”, và cửa thứ tư, cửa nhà bếp mà vẫn không ăn thua, cô liền quay lại với bố. Bố cô nói, “Có lẽ còn ngủ cả.”

“Nhưng không thể thế được. Bố có hình dung được là bác Clutter mà bỏ lễ nhà thờ không? Chỉ cốt để ngủ thôi ư?”

“Thế thì đi. Chúng ta sẽ xuống Sở Thầy Cô. Susan chắc phải biết có chuyện gì.”

Sở Thầy Cô, đối diện với ngôi trường hiện đại, là một tòa nhà quá thời, buồn tẻ đến nhói lòng. Hai chục phòng có lẻ của nó được ngăn ra thành những căn hộ chiếu cố dành cho các giáo viên không tìm ra được hay không được cấp chỗ ở khác. Nhưng Susan Kidwell và bà mẹ đã xoay xở để biến xấu thành đẹp, tạo nên được một không khí đàng hoàng trong căn hộ của mình – ba buồng nơi tầng trệt. Không thể ngờ được gian phòng khách bé như vậy lại chứa được – ngoài những thứ để ngồi – một đàn organ, một piano, cả một vườn những chậu nở đầy hoa, và thường còn có một con chó con lao vọt ra cùng một con mèo to lơ mơ ngủ. Vào buổi sáng Chủ nhật, Susan đứng ở cửa sổ gian phòng này nhìn xuống đường phố. Cô là một thiếu nữ cao, lờ lững, với khuôn mặt trái xoan xanh xao và đôi mắt đẹp màu xám pha lam nhạt; hai bàn tay cô khác người – ngón dài, mềm mại, sang quý một cách bồn chồn. Cô đã ăn mặc để đi lễ nhà thờ, và lúc này đang chờ chiếc Chevrolet của nhà Clutter, vì cô cũng thế, luôn luôn đi lễ với sự trông nom của nhà Clutter. Thế nhưng chỉ có bố con nhà Ewalts đến kể cho nghe câu chuyện kỳ quặc họ vừa gặp.

Nhưng Susan không thể giải thích, cả mẹ cô cũng thế, bà nói, “Nếu có thay đổi gì, tôi tin chắc là đằng ấy sẽ gọi điện. Susan, sao con không gọi lại đi? Họ có thể đang ngủ – mẹ cho là như vậy.”

“Vậy nên tôi gọi,” Susan nói, trong lời khai vào một ngày sau này. “Tôi gọi đến nhà và để cho chuông réo – ít ra là tôi đã có cảm tưởng chuông réo – ô, có đến một phút hay hơn. Không ai trả lời, cho nên ông Ewalt gợi ý là chúng tôi đi đến nhà ấy thử ‘đánh thức họ dậy xem’. Nhưng khi tôi tới đó tôi lại không muốn gọi. Vào trong nhà. Tôi sờ sợ, không hiểu tại sao, vì chuyện sợ kiểu này không xảy ra với tôi bao giờ cả – vâng, một cái gì như sợ nhưng chưa từng xảy ra. Nhưng mặt trời rực rỡ lắm, mọi vật nom đều tươi sáng và yên tĩnh. Thế rồi tôi nhìn thấy hai chiếc xe ở đó, cả chiếc xe hàng Coyote cũ kỹ của Kenyon. Ông Ewalt mặc quần áo lao động; ủng ông có bùn; ông cảm thấy mình ăn mặc không nghiêm chỉnh để đi gọi nhà Clutter. Nhất là vì ông chưa từng. Chưa từng vào nhà, ý tôi nói như thế. Cuối cùng, Nancy nói sẽ cùng tôi vào. Chúng tôi đi vòng ra cửa bếp, và dĩ nhiên là nó không khóa; người duy nhất quanh đây khóa cửa là bà Helm, gia đình đây thì không. Chúng tôi vào và tôi thấy ngay là nhà Clutter không ăn điểm tâm; không có đĩa, chẳng có gì trên lò. Rồi tôi để ý thấy một cái lạ: ví tiền của Nancy. Nó nằm trên sàn nhà, mở thế này. Chúng tôi đi ngang qua phòng ăn và dừng lại ở chân cầu thang. Buồng của Nancy ở ngay trên đầu. Tôi gọi tên Nancy và bắt đầu lên gác, Nancy Ewalt theo sau. Tiếng chân chúng tôi làm tôi sợ hơn bất cứ thứ gì, chúng quá to mà mọi cái khác thì lại đều quá im lặng. Cửa buồng Nancy mở. Rèm cửa không kéo, buồng đầy ánh nắng. Tôi không nhớ mình đã hét lên. Nancy Ewalt nói là tôi hét – hét, hét mãi hét mãi. Tôi chỉ nhớ con gấu bông Teddy của Nancy cứ trừng trừng nhìn tôi. Và Nancy. Và chạy…”

Trong lúc đó, ông Ewalt quyết định có lẽ không nên để hai cô con gái vào trong nhà một mình. Ông đang ra khỏi xe tìm hai cô thì nghe thấy tiếng hét, nhưng ông chưa kịp tới ngôi nhà, hai cô đã chạy đến với ông. Con gái ông kêu to lên, “Nancy chết rồi!” và nhào vào tay ông. “Bố ơi, thật mà! Nancy chết rồi!”

Susan quay sang Nancy Ewalt. “Không, không chết. Đừng nói thế. Đừng nói liều. Chỉ chảy máu cam thôi. Bạn ấy luôn bị chảy máu cam, chảy ghê lắm, và chỉ thế thôi.”

“Có nhiều máu quá. Có máu ở trên tường. Cậu chưa nhìn thấy hết đâu.”

“Tôi không hiểu đầu đuôi ra sao,” ông Ewalt sau đó làm chứng. “Tôi đã nghĩ có lẽ cô bé bị thương. Tôi thấy hình như việc phải làm trước tiên là gọi xe cứu thương. Cô Kidwell – là Susan ấy – bảo tôi là có một cái điện thoại ở trong bếp. Tôi tìm nó, đúng ở chỗ cô ấy nói. Nhưng ống nói đã tuột khỏi máy và khi tôi nhặt nó lên thì tôi thấy dây điện bị cắt mất rồi.”

Larry Hendricks, thầy giáo dạy tiếng Anh, hai mươi bảy tuổi, sống ở tầng thượng của Sở Thầy Cô. Ông muốn viết, nhưng căn hộ của ông không phải là sào huyệt lý tưởng cho một người muốn thành tác giả. Nó nhỏ hơn căn hộ nhà Kidwell, và, hơn thế, ông chia sẻ nó với một người vợ, ba đứa con cùng một cái ti vi hoạt động thường trực ngày đêm. (“Đó là cách duy nhất để giữ cho bọn trẻ yên.”) Tuy chưa được in, Hendricks trẻ tuổi, một cựu thủy thủ dáng đàn ông quê Oklahoma hút tẩu để ria và có một lọn tóc đen bất trị, ít nhất nom cũng có vẻ văn vẻ – trên thực tế, trông rất giống những bức ảnh thời trẻ của nhà văn ông ngưỡng mộ nhất, Ernest Hemingway. Để phụ thêm vào đồng lương thầy giáo, ông lái xe buýt của nhà trường.

“Đôi khi tôi chạy xe tới sáu chục dặm một ngày,” ông nói với một chỗ quen biết. “Thành ra chẳng còn được mấy thì giờ để viết. Trừ Chủ nhật. Hôm ấy, hôm Chủ nhật đó, 15 tháng Mười một, tôi ngồi ở trên này, trong căn hộ, lục xem giấy tờ. Phần lớn ý tưởng cho các truyện tôi viết là tôi lấy ra ở báo – ông biết không? Đúng. Ti vi đang mở và đám trẻ nhộn nhịp, nhưng ngay cả như thế nữa tôi vẫn nghe được những tiếng nói. Ở bên dưới. Dưới nhà bà Kidwell. Nhưng tôi không nghĩ rằng nó lại dính dáng đến tôi, vì tôi mới về đây – tôi chỉ vừa đến Holcomb lúc khai trường. Nhưng khi Shirley vợ tôi – đang phơi quần áo bên ngoài – chạy bổ vào nói, ‘Cưng ơi, tốt hơn là anh xuống nhà đi. Họ đang lên cơn kích động la hét kia kìa.’ Hai cô gái, chà, họ kích động thật. Susan không bao giờ thôi hét. Sẽ không bao giờ, lại còn hỏi tôi à. Và bà Kidwell tội nghiệp. Sức khỏe bà ấy không tốt, bà ấy vốn dĩ thần kinh dễ căng thẳng mà. Bà ấy cứ nói đi nói lại – nhưng mãi sau tôi mới hiểu bà ấy muốn nói gì – bà cứ nói đi nói lại, ‘Ôi, Bonnie, Bonnie, xảy ra chuyện gì thế? Bà vui như thế, bà bảo tôi là khỏi hết rồi, bà nói bà chẳng còn ốm lại bao giờ nữa!’ Nói như thế đấy. Ngay ông Ewalt cũng đâm kinh hoảng chưa từng thấy ở một người như ông ấy. Ông gọi điện tới văn phòng cảnh sát trưởng – cảnh sát trưởng của Garden City – bảo với họ rằng ‘có một trục trặc rất ư cơ bản ở nhà Clutter đằng kia’. Cảnh sát trưởng hứa đến tức thì, và ông Ewalt bảo tốt, ông ấy sẽ gặp cảnh sát trưởng trên xa lộ. Shirley xuống nhà ngồi với các bà các cô, cố làm cho họ bình tĩnh lại – làm như ai cũng có thể làm được vậy. Và tôi đi với ông Ewalt – đi xe với ông ấy ra xa lộ chờ cảnh sát trưởng Robinson. Trên đường đi, ông ấy kể cho tôi nghe việc đã xảy ra. Khi kể tới chỗ dây điện bị cắt, tôi liền nghĩ ngay, à à, và quyết định là tốt nhất phải giữ cho con mắt mở to. Ghi nhớ mọi chi tiết. Phòng trường hợp tôi được gọi ra làm chứng ở tòa.

Ông cảnh sát trưởng đến; lúc đó chín giờ ba mươi lăm – tôi xem đồng hồ mà. Ông Ewalt vẫy ông ấy đi theo xe chúng tôi, và chúng tôi lái ra đến nhà Clutter. Trước đấy tôi chưa đến đó bao giờ, chỉ nhìn từ xa. Dĩ nhiên tôi quen gia đình họ. Kenyon học ở lớp tiếng Anh năm thứ hai của tôi và tôi đã đạo diễn cho Nancy diễn trong vở Tom Sawyer. Nhưng đó là những đứa trẻ ngoại lệ, khiêm tốn, ông không thể biết là chúng con nhà giàu và sống ở trong một ngôi nhà lớn như vậy đâu – cây cối, bãi cỏ, mọi thứ đều được trông nom, chăm sóc là thế. Sau khi chúng tôi tới đó và ông cảnh sát trưởng đã nghe chuyện ông Ewalt kể, ông liền gọi bộ đàm cho văn phòng bảo đưa thêm lực lượng tăng cường cùng một xe cứu thương đến. Nói ‘Có một tai họa nào đó.’ Rồi chúng tôi vào nhà, cả ba chúng tôi. Qua nhà bếp thấy một cái ví nữ nằm trên sàn, và điện thoại ở chỗ dây bị cắt. Ông cảnh sát trưởng đeo súng lục ở hông, và khi chúng tôi bắt đầu lên gác, đi đến phòng Nancy, tôi để ý thấy ông đặt tay vào khẩu súng, sẵn sàng rút ra.

Đúng, hết sức tồi tệ. Cô gái tuyệt vời đó – nhưng ông sẽ chẳng bao giờ còn biết cô ấy thế nào đâu. Cô ấy bị bắn vào sau đầu bằng súng có lẽ chỉ cách có năm phân. Cô ấy nằm nghiêng, quay mặt vào tường và tường vấy máu. Chăn được kéo lên ngang vai cô ấy. Cảnh sát trưởng Robinson kéo nó xuống và chúng tôi thấy cô ấy mặc áo choàng tắm, bộ pijama, bít tất và dép lê – giống như là, bất kể chuyện kia xảy ra lúc nào, cô ấy hãy còn chưa lên giường. Tay cô ấy bị trói quặt sau lưng, cô chân cũng bị cột lại với nhau bằng loại dây thường thấy ở các cửa chớp kéo lên xuống ấy. Ông cảnh sát trưởng nói, ‘Đây là Nancy Clutter?’ – ông chưa bao giờ thấy cô ấy. Và tôi nói, ‘Vâng, vâng, là Nancy đấy.’

Chúng tôi lui vào trong gian sảnh, nhìn quanh. Tất cả các cửa khác đều đóng. Chúng tôi mở một cửa, thì ra đó là phòng tắm. Chỗ này có một cái gì là lạ. Tôi cho là vì chiếc ghế dựa – một loại ghế phòng ăn, nom như bị lạc chỗ trong phòng tắm. Mở cửa tiếp, chúng tôi đều nghĩ chắc là buồng của Kenyon. Một lô đồ đạc con trai vứt rải rác xung quanh. Và tôi nhận ra đôi kính của Kenyon – nhìn thấy nó trên giá sách cạnh giường. Nhưng giường trống không, tuy nom vẻ đã có người ngủ ở đó rồi. Thế là chúng tôi đi ra tận đầu gian sảnh, cái cửa cuối cùng, và tại đó chúng tôi thấy bà Clutter. Bà bị trói. Nhưng khác là tay lại ở đằng trước, thành ra nom bà như đang cầu nguyện, và bà đang cầm trong một bàn tay, đang nắm, một chiếc khăn tay. Hay miếng giấy vệ sinh? Sợi thừng ở cổ tay bà chạy xuống cổ chân, cổ chân cũng bị trói vào nhau, rồi chạy tiếp đến gầm giường và buộc vào cái ván kê chân – một ngón làm có nghệ thuật, rất rắc rối. Cứ nghĩ xem phải mất bao lâu để làm như thế! Mà bà thì nằm đấy, khiếp không còn hồn vía. Đúng, bà có đeo vài đồ kim hoàn, hai chiếc nhẫn – cái này là một lý do khiến tại sao tôi lại không tính ăn trộm là một động cơ – và một váy dài, một váy ngủ màu trắng cùng bít tất trắng. Miệng bà ấy bị dán băng dính nhưng bà ấy bị súng gí sát vào bên đầu mà bắn, và phát súng – cái va đập – đã làm cho miếng băng dính bong ra. Mắt bà ấy mở. Mở to. Tựa như bà ấy vẫn nhìn vào tên giết người. Vì bà chắc là phải nhìn nó làm chuyện kia – nhắm bắn. Chẳng ai nói gì. Chúng tôi đều bàng hoàng. Tôi nhớ ông cảnh sát trưởng cứ nhìn quanh để xem có thể tìm ra được cái vỏ đạn không. Nhưng kẻ làm cái việc này lạnh lùng và thạo như thế thì chắc chắn không để lại dấu tích gì.

Dĩ nhiên, chúng tôi thầm hỏi ông Clutter đâu? Và Kenyon? Cảnh sát trưởng nói, ‘Chúng ta thử xuống dưới nhà xem.’ Chỗ đầu tiên chúng tôi thử tìm là phòng ngủ – chính là phòng ông Clutter vẫn ngủ. Ga trải giường bị giật tanh bành, phía chân giường có một cái túi con với một mớ danh thiếp lộn xộn thòi ra ngoài, giống như có ai đã lục lọi để tìm một cái gì đặc biệt – một cái thư, một văn tự nợ, ai biết chứ? Trong ví không có tiền không có nghĩa là vốn dĩ không có tiền hay tiền đã bị lấy. Đây là túi của ông Clutter, mà ông ấy thì không bao giờ mang tiền mặt. Ngay tôi đây mới về Holcomb có hai tháng cũng còn biết chuyện ấy nữa là. Tôi còn biết là cả ông Clutter lẫn Kenyon đều chẳng thấy cái quỷ gì nếu không đeo kính. Mà kính của ông ấy lại ở trên bàn giấy. Cho nên tôi nghĩ, dù nó ở đâu thì cũng không phải tự nó muốn đến đó. Chúng tôi nhìn khắp, trật tự đâu vẫn vào đấy như thường – không dấu vết vật lộn, không bừa bộn. Trừ văn phòng, điện thoại bị đặt ra ngoài đế và dây bị cắt như trong bếp. Cảnh sát trưởng Robinson tìm ra mấy khẩu súng trong tủ tường, ngửi xem có phải vừa mới bắn không. Ông ta bảo là không, và – tôi chưa thấy ai bối rối hơn ông ta lúc đó – rồi ông ta nói, ‘Herb có thể ở chỗ quỷ nào chứ nhỉ?’ Vừa lúc đó nghe có tiếng chân. Từ dưới tầng hầm đi lên. ‘Ai đó?’ ông cảnh sát trưởng nói, có vẻ như sẵn sàng bắn. Một người nói, ‘Tôi đây, Wendle.’ Té ra là Wendle Meier, phó cảnh sát trưởng. Vẻ như ông đến mà không thấy chúng tôi nên xuống xem xét ở dưới tầng hầm. Cảnh sát trưởng bảo ông – và giọng thấy xót xa: ‘Wendle – tôi chả hiểu thế nào cả. Có hai cái xác ở trên kia.’ ‘Được,’ ông Wendle nói, ‘Một cái nữa dưới kia.’ Thế là chúng tôi theo ông ấy xuống tầng hầm. Hoặc phòng giải trí, tôi đoán là nó được gọi như thế. Không tối – có những cửa sổ để ánh sáng tha hồ lọt vào. Kenyon ở đầu đằng kia, nằm trên đi văng. Cậu bị bịt miệng bằng băng dính, bị trói tay trói chân, như bà mẹ – cũng cái quy trình tinh vi đó, dây đi từ tay xuống chân, cuối cùng buộc vào một chỗ kê tay của cái đi văng. Chả hiểu sao cậu ấy ám ảnh tôi nhất, Kenyon ấy. Tôi không nghĩ ấy là bởi cậu là người dễ nhận ra nhất, người giống bản thân mình nhất mặc dù cậu bị bắn thẳng vào mặt, kê sát đầu bắn. Cậu mặc áo dệt kim và quần jean màu lam, chân trần – tựa như mặc vội, vớ được cái gì xỏ cái ấy. Đầu kê trên hai cái gối, làm như chúng đệm vào cho dễ bắn hơn.