Chương 8

Máu Lạnh

Đăng vào: 11 tháng trước

.

Rồi cảnh sát trưởng nói, ‘Chỗ kia đi đâu?’ Ý nói đến một cửa nữa của tầng hầm. Ông dẫn đường, nhưng bên trong tối quá không nhìn thấy cả bàn tay mình cho đến khi ông Ewalt tìm ra chỗ bấm đèn. Đây là gian lò sưởi, rất ấm. Quanh vùng, người ta đặt một lò chạy bằng ga và bơm ga từ dưới đất lên. Không mất bao tiền nên vì thế nhà nào cũng cực ấm. Tôi nhìn vào ông Clutter, và không tài nào dám nhìn lại. Tôi biết là bắn gần sát sạt thì không làm cho máu chảy nhiều. Và tôi không lầm. Ông đã bị bắn y như Kenyon – khẩu súng chĩa thẳng vào mặt. Nhưng chắc trước khi bị bắn ông đã chết. Hay, nói thế nào cũng là đang chết. Vì cổ họng ông đã bị cắt. Ông mặc bộ pijama kẻ sọc – độc có thế. Miệng ông bị dán băng dính; băng dính quấn vòng quanh hết đầu ông. Hai cổ chân ông bị trói lại với nhau, nhưng hai tay thì không – hay đúng hơn, ông đã xoay xở được, có trời biết làm sao, có thể trong cơn thịnh nộ hay đau đớn, ông đã rứt đứt thừng trói tay ông. Ông nằm sóng soài ở trước lò sưởi. Trên một cái thùng các tông to vẻ như được cố ý đặt ở đấy. Một cái thùng nệm. Cảnh sát trưởng nói, ‘Xem kìa, Wendle.’ Cái mà ông trỏ vào là một vết chân máu. Trên cái thùng nệm. Một nửa vết chân đằng gót với những vòng tròn – hai lỗ hổng ở giữa như hai con mắt. Rồi một người trong chúng tôi – ông Ewalt? Tôi không nhớ – chỉ vào một cái khác. Một thứ tôi không thể đưa ra khỏi tâm trí tôi được. Ở trên đầu có một đường ống dẫn ga và cột vào đó, lủng lẳng ở đó, là một sợi thừng – loại thừng tên giết người đã dùng. Rõ ràng là có một lúc ông Clutter đã bị trói ở đây, tay bị treo lên rồi lại cắt xuống. Nhưng tại sao? Để tra tấn ông? Tôi không nghĩ chúng ta sẽ có lúc nào biết được. Biết ai làm, hay tại sao, hay điều gì đã xảy ra ở nhà này cái đêm hôm ấy.

Một lúc sau ngôi nhà bắt đầu đầy người. Xe cứu thương tới, rồi người điều tra án mạng và cha Giám lý, một nhiếp ảnh viên của cảnh sát, lính cảnh vệ của bang, người ở đài phát thanh và báo chí. Ôi, rất đông. Họ phần lớn bị gọi đi trong khi đang lễ ở nhà thờ, ứng xử tuồng như vẫn đang ở đấy. Rất im lặng. Thầm thì. Tựa như không ai tin được chuyện này. Một cảnh vệ của bang hỏi tôi có công việc gì ở đây không, nếu không thì tốt hơn là tôi đi đi. Bên ngoài, trên thảm cỏ, tôi thấy ông phó cảnh sát trưởng đang nói chuyện với một người đàn ông – Alfred Stoecklein, người làm mướn. Hình như ông này ở cách nhà Clutter không tới trăm mét, không có gì ngăn giữa ông ta với những người của gia đình Clutter, trừ một nhà kho. Nhưng ông ta đang nói đến chỗ ông ta không nghe thấy một tiếng động nào, ông ta nói, ‘Cho tới năm phút vừa rồi, khi một đứa con tôi chạy vào bảo là ông cảnh sát trưởng đang ở đây tôi mới biết có chuyện, trước thì chả biết tí gì. Bà ấy và tôi đêm qua đên hai giờ mới ngủ, cứ ngồi lên nằm xuống suốt, vì chúng tôi có một cháu bé bị ốm. Nhưng cái duy nhất chúng tôi nghe thấy, quãng mười rưỡi hay mười một giờ kém mười lăm, tôi nghe thấy một chiếc xe hơi lái đi, liền nhận xét với bà nhà tôi: ‘Bob Rupp đi đấy.’ Tôi bắt đầu đi bộ về nhà, và trên đường, khoảng lưng chừng rặng cây du Tàu, tôi trông thấy con chó già Collie của Kenyon, nom sợ hãi. Đứng đấy, đuôi quặp giữa hai chân, chẳng sủa cũng chẳng cựa quậy. Nhìn thấy con chó – không hiểu sao lại làm cho tôi lại cảm thấy. Tôi đã quá choáng váng, quá tê dại, không thể cảm nhận nổi đầy đủ sự ghê tởm của chuyện đó. Sự đau đớn. Sự kinh hoàng. Họ đã chết. Toàn gia. Những người tử tế, tốt bụng, những người tôi biết – mà bị giết. Ông phải tin là thế, vì nó đúng như thế.”

Cứ hai tư giờ một lần có tám đoàn xe lửa chở khách không đỗ chạy vù qua Holcomb. Trong đó, hai chuyến đưa thư đến và lấy thư đi – một việc mà, như người trông coi nhiệt thành giải thích, có cái khía cạnh tài tình của nó. “Vâng thưa ngài, ngài phải cảnh giác. Các tàu đó đi qua đây, đôi khi chơi tới một trăm dặm một giờ. Chỉ gió của nó thôi cũng đủ cho các ngài hạ đài. Và các bao thư ấy mà bay ra thì hãy lo cho cái mạng mình đi! Khác nào đóng vai cản đối phương trong bóng bầu dục vậy chứ: Ình! Ình! ÌNH! Nhớ lấy là không phải tôi đang than vãn. Đây là công việc trung thực, công việc của chính phủ, và nó giữ cho tôi trẻ mãi.” Bưu tá viên của Holcomb, bà Sadie Truitt – hay Mẹ Truitt, như người thị trấn đây gọi – trông đúng là trẻ hơn tuổi thật vốn đã tới bảy lăm. Một góa phụ thấp đậm, phong sương, đi giày múa ba lê, đeo băng đô và ủng cao bồi (“Những của dễ chịu nhất mà bạn có thể quàng vào chân, mềm như cái lông chim ấy”), Mẹ Truitt là người bản địa Holcomb cao tuổi nhất. “Thời của họ, chúng tôi gọi chỗ này là Sherlock. Rồi cái người lạ mặt kia đến. Bằng cái tên Holcomb. Một thằng cha trồng lấy gỗ, cái tay vừa nói ấy. Kiếm được tiền, thế là quyết định chỗ này phải mang tên của chả. Rồi mau chóng chả đã làm gì nào? Bán đi. Chuyển đến California. Không phải là chúng tôi. Tôi sinh ra ở đây, các con tôi sinh ra ở đây. Chúng! Tôi! Ở! Đây!” Một người con của Mẹ là bà Myrtle Clare, bà này lại chính là bà chánh bưu điện sở tại. “Có điều, đừng có mà nghĩ đó là cách tôi kiếm lấy địa vị này từ chính phủ. Con Myrtle còn chẳng muốn tôi có địa vị nữa cơ. Nhưng ấy là một nghề mình phải chạy lấy. Nó đến với bất kỳ ai đặt giá thấp nhất. Và tôi luôn đặt thế – thấp đến nỗi ngay cả xe ủi cũng nhòm trộm qua được. Ha ha! Cái này chắc là làm bọn trẻ cáu đây. Nhiều cậu muốn làm người trông coi thư tín, vâng, thưa ngài. Nhưng tôi không biết khi mà tuyết cao bằng ông già Primo Carnera và gió thổi tím tái hết cả người lên rồi mấy cái bao thư kia nó vút bay đến – Ú! Uỳnh! – thì chúng sẽ thích đến đâu.”

Trong nghề của Mẹ Truitt, Chủ nhật là ngày làm việc như bất kỳ ngày nào khác. Ngày 15 tháng Mười một, đang chờ chuyến mười giờ ba mươi hai chạy về phía Tây thì bà ngạc nhiên thấy hai xe cứu thương băng qua đường – rồi quay về hướng nhà Clutter. Chuyện này đã khiến bà làm một việc trước kia chưa từng làm – bỏ nhiệm vụ. Các bao thư rơi xuống đâu cứ để đấy, đấy là cái tin mà chắc Myrt phải nghe thấy tức thì.

Dân Holcomb gọi bưu điện của họ là “Tòa nhà Liên bang”, cái tên có vẻ như khá là quá thực chất để được giao cho một cái nhà một tầng bụi bặm đáng bỏ đi. Trần dột, ván nhà phồng lên, các thùng thư không bao giờ đóng, bóng đèn bị vỡ, đồng hồ thì chết. “Vâng, thì đáng xấu hổ,” người phụ nữ chủ trì ở đây, một người rất chi oai vệ, có phần độc đáo, cay cảy, đã tán thành như vậy. “Nhưng tem thư thì vẫn ổn, đúng không? Dẫu sao thì tôi quan tâm cái gì đây? Phần của tôi, ở cái chỗ này, rất thoải mái dễ chịu mà. Tôi có ghế xích đu, có lò sưởi đẹp đốt củi, có bình pha cà phê và có nhiều cái để đọc.”

Bà Clare là gương mặt nổi tiếng nhất ở hạt Finney. Tiếng tăm của bà không phải mới nảy ra từ công việc hiện nay của bà mà là từ công việc trước kia – chủ nhà hàng khiêu vũ, một hiện thân không đi đôi với cái vẻ ngoài của bà. Bà là một phụ nữ dữ tướng, hay mặc quần, áo sơ mi len, đi ủng cao bồi, tóc đỏ, tính tình hơn hớn, tuổi tác của bà không bao giờ được tiết lộ (“Với tôi cái này là để biết, còn với ông thì là để đoán.”) nhưng ý kiến của bà thì nhanh chóng được tiết lộ, phần lớn được công bố với cái giọng có độ cao và sự sắc gọt như giọng gà trống. Cho đến năm 1955, bà và ông chồng quá cố mở Nhà hàng Khiêu vũ Holcomb, một doanh vụ mà nhờ tính độc nhất của nó ở khu này đã lôi cuốn một lượng khách uống cừ nhảy đẹp từ trăm dặm quanh vùng đến, những vị khách mà lối ứng xử thi thoảng lôi cuốn sự quan tâm của cảnh sát trưởng. “Chúng tôi đã có những giờ phút căng thẳng đấy, đúng,” bà Clare hồi tưởng lại. “Một số cậu con trai chân vòng kiềng ở hạt này, chỉ cần bà cho chúng uống các thứ cháy họng là chúng liền giống da đỏ ngay – thấy cái gì là muốn lột da đầu cái đó. Dĩ nhiên, chúng tôi chỉ bán những thứ hợp pháp, không bao giờ bán của cấm. Mà dù có hợp pháp cũng không bán đâu. Chồng tôi, ông Homer Clare, không chịu được trò đó; tôi cũng vậy. Một hôm, Homer Clare – ông qua đời trước đây bảy tháng mười hai ngày, sau ca mổ năm giờ đồng hồ ở Oregon – ông bảo tôi, ‘Myrt ơi, cả đời chúng ta sống trong địa ngục thì nay chúng ta sẽ chết trên thiên đường.’ Hôm sau chúng tôi đóng cửa nhà nhảy. Tôi chẳng bao giờ tiếc vì đã làm thế. Ô, lúc đầu tôi có nhớ lúc mình còn là con cú đêm ấy – những điệu nhạc, sự vui vầy hội hè. Nhưng nay Homer đi rồi, tôi đúng là vui khi được làm việc ở đây, tại Tòa nhà Liên bang. Ngồi một lúc. Nhâm nhi một ly cà phê.”

Đúng ra, sáng Chủ nhật ấy, bà Clare vừa rót ở bình cà phê mới pha ra một ly cho mình thì Mẹ Truitt quay lại.

“Myrt!” bà nói, nhưng không nói tiếp được nữa vì còn phải thở. “Myrt, có hai xe cứu thương đến nhà Clutter.” Con gái bà nói, “Chuyến mười giờ ba hai phút ở đâu?”

“Xe cứu thương chứ. Đến nhà Clutter.”

“Kìa, thì đã sao? Chỉ là chuyện Bonnie thôi. Lại lên cơn. Chuyến mười giờ ba hai phút ở đâu?”

Mẹ Truitt ngồi phịch xuống; đã biết câu trả lời như thường lệ, Myrt đang thưởng thức đoạn cuối. Rồi Mẹ bật ra một ý. “Nhưng mà Myrt, nếu là Bonnie thì sao lại những hai xe cứu thương?”

Một câu hỏi sắc nhạy, bà Clare, vốn là người hâm mộ logic, tuy hay dẫn giải logic theo kiểu hơi kỳ cục, buộc phải thừa nhận vậy. Bà nói sẽ điện thoại cho bà Helm. “Mabel sẽ biết,” bà nói.

Cô con gái nói chuyện với bà Helm lâu tới vài phút, làm cho Mẹ Truitt hết sức bồn chồn, bởi Mẹ không nghe được gì ngoài các câu trả lời tiếng một khó hiểu của con gái. Tệ hơn, khi đặt máy, cô con gái không buồn làm nguôi cơn tò mò của bà lão; thay vì vậy nó lại lầm lì uống hết cà phê, đi ra bàn làm việc, đóng dấu một chồng thư.

“Myrt,” Mẹ Truitt nói. “Vì Chúa, Mabel nói gì vậy hả?”

“Con đâu có ngạc nhiên,” bà Clare nói. “Khi mẹ nghĩ Herb Clutter đã bỏ cả đời ra cập rập hấp tấp như thế nào, lao vào đấy lấy thư từ mà chẳng bao giờ chào-và-cảm-ơn-mày-chó-nhé được cho một tiếng, lao đi nháo nhào như con gà nhép cứ nhô đầu ra – đến câu lạc bộ, trông coi mọi sự, nhận những việc này việc nọ mà có lẽ người khác ước ao. Thì nay xem kia – ông ta lãnh đủ rồi. Thôi, từ nay không còn phải cập rập hấp tấp nữa.”

“Sao hả, Myrt? Ông ấy sao lại không còn phải gì gì nữa?”

Bà Clare cao giọng lên. “VÌ RẰNG ÔNG ẤY CHẾT MẤT RỒI. Cả Bonnie nữa. Cả Nancy. Cả cậu con trai. Ai đấy bắn họ.”

“Myrt, đừng nói những điều như thế đi. Ai bắn họ?”

Vẫn không ngừng đóng dấu tem thư, bà Clare đáp, “Cái người đàn ông trên máy bay. Cái người mà Herb kiện là đã đâm máy bay xuống cây ăn quả của ông ấy. Nếu không phải hắn ta thì có lẽ là mẹ đấy. Hay một ai đó qua phố. Hàng xóm tất cả đều là rắn đuôi chuông hết. Tụi đầu gấu đang tìm cơ hội để đập cửa vào mặt mẹ. Cả thế giới này đều thế cả. Mẹ biết như thế mà.”

“Mẹ không biết,” Mẹ Truitt nói, đưa tay lên tai. “Mẹ không biết chuyện gì như thế.”

“Bọn đầu gấu.”

“Myrt, mẹ sợ.”

“Sợ cái gì? Khi giờ của cụ đến thì nó đến thôi. Nước mắt cũng không cứu được cụ đâu.” Bà quan sát thấy mẹ mình bắt đầu nhỏ vài giọt nước mắt. “Khi Homer chết, tôi đã khóc cạn hết nước mắt trong người và cạn cả đau buồn nữa. Nếu có đứa nào xổng ra ở quanh đây mà muốn cắt cổ tôi thì tôi chúc nó may mắn. Cái đó hỏi có khác gì cơ chứ? Trong vĩnh hằng thì như nhau hết mà. Xin hãy nhớ: nếu một con chim đem cát, từng hạt từng hạt một qua đại dương, thì đến lúc nó mang hết được cát sang bờ bên kia mới chỉ là bắt đầu của vĩnh hằng. Vậy cụ hãy xì mũi đi nào.”

Cái tin ghê gớm, được tuyên cáo từ băng ghế nhà thờ, được truyền đi trên đường dây điện thoại, lan khắp nơi bằng trạm phát thanh của Garden City. KIUL (“Một thảm kịch, không thể tin nổi và gây sốc vượt mọi lời nói, đã giáng vào bốn thành viên của gia đình Herb Clutter khuya đêm thứ Bảy hay sớm hôm nay. Cái chết tàn khốc và không có động cơ rõ ràng…”), làm cho ở người nhận tin trung bình một phản ứng gần với phản ứng của Mẹ Truitt hơn là của bà Clare: sửng sốt, ngả sang rụng rời; một cảm giác kinh hoàng cạn cợt bị những dòng chảy lạnh lẽo của nỗi sợ cá nhân mau chóng làm cho sâu hoắm.

Quán cà phê Hartman, có bốn bàn đóng thô và một quầy ăn trưa, có thể thỏa mãn chỉ một phần các lời đồn đại đầy khiếp đảm, phần lớn của đám đàn ông, những người mong muốn tụ bạ ở đây. Chủ quán, bà Bess Hartman, một người da thịt ít ỏi, một phụ nữ không đến nỗi rồ với mái tóc màu vàng lẫn muối tiêu ốp bồng, cặp mắt sáng xanh đầy quyền thế, là chị em họ của bà chánh bưu điện Clare, người mà bà Hartman có thể sánh bằng ở phong cách hồn nhiên vô tư, có lẽ còn vượt hơn. “Một vài người nói tôi là một con chim già dày dạn, nhưng chắc chắn chuyện của nhà Clutter có làm cho tôi chao đảo,” về sau bà nói với một người bạn thế. “Tưởng tượng mà xem, có ai giở trò láu cá như thế chứ! Cái lúc tôi nghe chuyện, khi mọi người đổ vào đây nói đủ các thứ chuyện kỳ quặc ấy, tôi liền nghĩ ngay đến Bonnie. Dĩ nhiên thế là dớ dẩn, nhưng chúng ta không biết sự tình, và nhiều người nghĩ rằng có thể – nếu tính đến các cơn cớ của bà ấy. Bây giờ chúng ta không biết nghĩ gì đây. Chắc đây là giết vì thù hằn. Do một kẻ biết cả trong lẫn ngoài của nhà này. Nhưng ai thù ghét nhà Clutter? Tôi chưa nghe thấy một lời nào chống lại họ bao giờ; gia đình nào cũng nên được lòng người như nhà ấy, và nếu đôi khi chuyện như thế này xảy ra cả với họ thì còn ai an toàn nữa đây, tôi hỏi bà? Một ông già ngồi đây sáng Chủ nhật ấy, ông ấy vạch đúng ra vấn đề, cái lý do khiến không ai ngủ được; ông ấy nói, ‘Tất cả những người chúng ta có ở tận chốn này đều là bạn bè chúng ta. Không có gì khác.’ Ở mặt nào đó, đây là chỗ tồi tệ nhất của vụ án. Đáng sợ dường nào khi hàng xóm không thể nhìn nhau mà không có chút ngạc nhiên! Vâng, sống với nhau mà như thế là gay; nhưng nếu như có bao giờ họ tìm ra kẻ làm chuyện này thì tôi dám chắc lúc đó kẻ ngạc nhiên hơn cả bản thân bọn giết người lại chính là chúng ta đấy.”

Bà Bob Johnson, vợ của đại lý Bảo hiểm Nhân thọ New York, là một tay bếp xuất sắc, nhưng bữa tối Chủ nhật bà chuẩn bị mà không được ăn – ít nhất là không được ăn lúc nó còn nóng – vì đúng lúc chồng bà cắm nĩa vào con trĩ rán thì ông nhận được điện thoại của một người bạn. “Và đó,” ông nhớ lại, khá rầu rĩ, “là lần đầu tiên tôi nghe nói tới vụ ở Holcomb. Tôi không tin nổi. Tôi không thể cho phép mình tin. Trời, tôi cá ngân phiếu của Clutter ở ngay trong túi tôi đây. Một mẩu giấy đáng giá tám chục nghìn đô la. Nếu cái điều tôi đã nghe là đúng. Nhưng tôi nghĩ, không thể đúng được, chắc đã có sai lầm gì đây, những chuyện như thế chưa từng xảy ra, ông không thể vừa lúc nãy bán một món bảo hiểm lớn cho một người mà lúc sau người ấy đã chết. Bị giết. Nghĩa là bồi thường kép. Tôi không biết làm thế nào. Tôi gọi người quản lý của văn phòng chúng tôi ở Wichita. Bảo ông ta là tôi đã có tấm ngân phiếu nhưng chưa kịp làm đủ thủ tục, vậy xin cho ý kiến. Đúng, đây là một tình huống tế nhị. Rõ là về pháp lý chúng tôi không buộc phải trả. Nhưng về luân lý lại là chuyện khác. Dĩ nhiên chúng tôi quyết định làm theo luân lý.”

Hai người được hưởng nhờ thái độ cao quý này – Eveanna Jarchow và cô em gái Beverly, hai người kế thừa duy nhất bất động sản của bố họ – chỉ trong vài giờ sau phát hiện đáng sợ kia đã trên đường tới Garden City, Beverly đi từ Winfield, Kansas, cô đang thăm chồng chưa cưới của cô ở đấy, còn Eveanna từ nhà cô ở Núi Carroll, Illinois. Dần dần, theo thời gian, những người khác trong họ hàng được báo tin, trong đó có bố ông Clutter, hai anh trai ông, Arthur và Clarence và em gái, bà Harry Nelson, đều ở Larned, Kansas, và người em gái thứ hai, bà Elaine Selsor, ở Palatka, Florida. Còn cả bố mẹ của Bonnie Clutter, ông bà Arthur B. Fox, sống ở Pasadena, California, cùng ba anh em trai của bà – Harold ở Visalia, California, Howard ở Oregon, Illinois, và Glenn ở Kansas City, Kansas. Quả tình, phần lớn những người có trong danh sách khách dự lễ Tạ ơn của nhà Clutter đều đã được hoặc gọi điện thoại hoặc gửi điện tín và đa số đã lên đường ngay để có một cuộc gặp mặt gia đình không phải quanh một tấm ván rên rỉ mà là ở bên mộ một đám tang hàng loạt.

Ở Sở Thầy Cô, Wilma Kidwell buộc phải dằn mình để kiềm chế đứa con gái, vì Susan, mắt húp híp, khốn khổ bởi những cơn quằn mình nôn ọe, cứ cãi, không chịu nghe can gián mà cứ nài rằng con phải đi – phải chạy – ba dặm đến trại nhà Rupp. “Mẹ không thấy ư, mẹ?” em nói. “Nếu Bobby nghe thấy chuyện đó thì sao? Cậu ấy yêu Nancy. Con với cậu ấy cả hai đều yêu. Con phải là người báo cho cậu ấy.”

Nhưng Bobby đã biết. Trên đường về nhà, ông Ewalt đã dừng lại ở trang trại nhà Rupp mà chuyện trò với Johnny Rupp bạn ông, bố của tám đứa con trong đó Bobby là thứ ba. Hai ông cùng đi vào nhà ngủ – một tòa nhà tách ra khỏi nhà chính của trại vốn quá bé không đủ chỗ cho tất cả con cái ông Rupp cùng ở. Bọn con trai sống ở nhà ngủ, đám con gái ở “nhà trên”. Hai ông thấy Bobby đang chuẩn bị giường ngủ. Cậu nghe ông Ewalt, không hỏi han gì, rồi cảm ơn ông đã tới. Sau đó cậu ra đứng ở ngoài, dưới nắng. Cơ ngơi nhà Rupp ở trên một quả đồi nhô lên cao, một chỗ đất bằng bày ra trống trải, ở đó cậu có thể nhìn thấy đất đã thu hoạch loa lóa sáng của Trại Lũng Sông. Khung cảnh làm cho cậu mải mê có lẽ đến một tiếng đồng hồ. Những người toan giúp cậu khuây khỏa đều uổng công. Chuông báo bữa tối reo, mẹ cậu gọi cậu vào – gọi đến nỗi cuối cùng bố cậu nói, “Thôi. Cứ để con nó ở một mình.”

Larry, chú em, cũng từ chối nghe theo tiếng chuông triệu hồi. Cậu lượn quanh Bobby, không thể giúp đỡ nhưng muốn giúp đỡ, dù cho ông anh đã bảo “Đi đi”. Sau đó, khi anh cậu thôi đứng mà bắt đầu đi xuống con đường và tắt ngang cánh đồng đến Holcomb thì Larry theo anh. “Hê, Bobby. Nghe này. Nếu chúng ta đi đến đâu đó thì sao lại không đi bằng xe?” Anh cậu không trả lời. Cậu đang đi có mục đích, thật ra là chạy, nhưng Larry bám theo không khó. Tuy mới mười bốn, cậu đã cao hơn anh, ngực nở hơn, chân cẳng dài hơn. Dù có đủ loại bằng khen về thể thao, Bobby đúng hơn vẫn ở dưới tầm cỡ trung bình – rắn chắc nhưng mảnh khảnh, một chàng trai thanh tú với khuôn mặt dẹp, cởi mở ân cần. “Hê, Bobby. Nghe đây. Họ không cho anh gặp chị ấy đâu. Không được cái gì đâu.” Bobby quay lại cậu em, nói, “Đi về, về nhà.” Cậu em rớt lại sau, rồi đi theo cách một quãng. Tuy là nhiệt độ của mùa bầu bí, ngày vẫn chói lọi, cả hai cậu đều mồ hôi mồ kê khi đến gần một rào chắn do lính cảnh vệ bang dựng lên ở lối vào Trại Lũng Sông. Nhiều bạn bè của gia đình Clutter, cả người lạ ở khắp hạt Finney tụ tập ở chỗ này, song không ai được phép qua rào chắn, nhưng ngay sau khi hai anh em Bobby đến đó thì nó được nhấc vụt lên để cho xe cứu thương ra, bốn xe, số xe cuối cùng đã được yêu cầu đến để mang các nạn nhân đi, và một xe của văn phòng cảnh sát trưởng chở đầy người – những người mà chính lúc đó vẫn đang nhắc tới cái tên Bobby Rupp. Vì Bobby, như sau này cậu được biết, là nghi phạm chính của họ.

Ở cửa sổ phòng khách nhỏ của mình, Susan Kidwell nhìn đám người màu trắng lướt qua, dõi theo mãi cho tới khi nó rẽ ở góc phố và bụi của con phố không lát đá dễ dàng tung bay lên đã rơi xuống lại. Cô vẫn còn đang ngắm cảnh này thì Bobby, bị chú em cao to che mất, trở thành một phần của cảnh kia, run rẩy đi lại phía cô. Cô đi ra cổng nhà gặp cậu. Cô nói, “Mình rất muốn báo cho cậu.” Bobby bắt đầu khóc. Larry vẩn vơ ở trong sân Sở Thầy Cô, tựa vào một cái cây. Cậu không nhớ được mình đã từng thấy Bobby khóc bao giờ chưa, và cậu không muốn thấy, nên cúi đầu xuống.

Xa tít tận thị trấn Olathe, trong một phòng khách sạn có những tấm mành cửa sổ làm ánh nắng giữa trưa tối lại, Perry đang ngủ, một chiếc rađiô xách tay rì rầm bên cạnh hắn. Hắn chỉ tụt ủng ra, còn quần áo chẳng buồn cởi. Hắn nằm úp sấp ngang giường, tuồng như giấc ngủ là vũ khí đã quật ngã hắn. Đôi ủng, màu đen, khóa bạc, ngâm trong chậu rửa đầy nước ấm giờ đã nhờ nhờ hồng.

Về phía Bắc ít dặm, trong gian bếp vui mắt của một trang trại khiêm nhường, Dick đang ngon bữa tối Chủ nhật. Những người khác – mẹ, bố, em trai hắn – đều không nhận thấy điều gì khác thường trong cung cách hắn. Buổi trưa về đến nhà, hắn hôn mẹ, sẵn sàng trả lời những câu hỏi bố đặt ra liên quan tới chuyến đi mà hắn nói là hết đêm để đến Fort Scott, rồi ngồi xuống ăn, vẻ hoàn toàn vẫn là cái Tôi thường ngày của hắn. Khi xong bữa, ba người đàn ông vào phòng khách để xem trận bóng rổ trên ti vi. Buổi phát hình vừa bắt đầu, ông bố đã ngạc nhiên thấy Dick ngáy; lúc đó ông nhận xét với đứa em Dick rằng ông không bao giờ nghĩ mình sẽ sống đến ngày thấy Dick ngủ mà không xem bóng rổ. Dĩ nhiên, ông không hiểu là Dick mệt đến nhường nào, không hiểu là, trong nhiều việc làm khác của nó, thằng con đang ngủ chập chờn kia của ông đã lái xe hơn tám trăm dặm trong vòng hai mươi tư giờ vừa qua.