Chương 7

Máu Lạnh

Đăng vào: 11 tháng trước

.

“Nhưng,” Green tiếp tục, “tôi thấy tranh luận với nhau về Kinh Thánh thì chẳng được lợi ích gì. Bang chúng ta ban bố rằng hình phạt cho án mạng ở cấp một là tù chung thân hay treo cổ. Đó là pháp luật. Thưa các ngài, các ngài tới đây là để thực thi pháp luật. Và nếu có một vụ nào mà trong đó bản án cao nhất được chứng minh là thỏa đáng thì chính vụ này đây. Đây là những tên giết người kỳ quặc, tàn ác. Bốn người trong đám công dân của các ngài đã bị tàn sát như những con lợn trong chuồng. Và vì lý do gì? Không phải vì trả thù hay thù hận gì hết. Chỉ vì tiền. Tiền. Đây là sự cân đo đong đếm lạnh lùng và được tính toán xem bao nhiêu bạc thì đổi lấy bao nhiêu máu. Và những mạng người kia được mua đi mới rẻ làm sao! Cướp vì bốn chục đô la! Mười đô la một mạng!” Ông rít lên, chỉ một ngón tay đi đi lại lại giữa Hickock và Smith. “Họ đi có dao găm và súng. Họ đến trấn lột và giết…” Giọng ông run lên, thấp xuống và mất đi, tựa như bị nghẹn lại bởi sức mạnh lời nguyền rủa mãnh liệt của chính ông đối với hai bị cáo đang nhởn nhơ nhai kẹo cao su. Lại quay sang bồi thẩm đoàn, ông hỏi, “Các ngài sẽ làm gì đây? Các ngài sẽ làm gì với những kẻ đã trói chân tay một người lại rồi cắt cổ và bắn vỡ đầu người ấy ra! Cho họ một hình phạt tối thiểu ư? Vâng, mà đấy mới chỉ là một trong bốn án mạng. Còn Kenyon Clutter, một thiếu niên còn cả cuộc đời trước mặt, bị trói vô phương tự vệ mà chứng kiến bố mình vật lộn với cái chết thì sao đây? Hay cô thiếu nữ Nancy Clutter, nghe thấy tiếng súng và biết thời khắc của mình sắp điểm. Nancy đã cầu xin tha mạng: ‘Đừng! Ôi, xin đừng. Xin. Xin.’ Cơn hấp hối thê thảm làm sao! Cuộc tra tấn mới kinh khủng làm sao! Rồi còn lại đấy người mẹ, bị trói bị dán miệng; và phải nghe thấy chồng và hai đứa con yêu dấu của mình lần lượt chết. Nghe cho tới cuối cùng khi những kẻ sát nhân, hai bị cáo ngồi trước mặt các ngài đây, bước vào trong buồng, chiếu đèn pin vào mặt bà và để cho một phát súng kết liễu sự tồn tại của toàn bộ một gia đình.”

Ngừng lại, Green đau đớn sờ vào một cái nhọt ở sau gáy, một chỗ viêm đã chín mọng có vẻ sắp vỡ toang ra như chính con người đang đèo bòng nó đây. “Vậy thưa các ngài, quý ngài sẽ làm gì đây? Cho họ mức án tối thiểu ư? Đưa họ trở lại trại giam, cho họ cơ hội vượt ngục hay được tha theo lời hứa ư? Lần sau họ đi giết người thì có thể là nhà của quý ngài đấy. Tôi nói với quý ngài,” ông trịnh trọng nói, nhìn trừng trừng vào bồi thẩm đoàn một cách vừa thách thức lại vừa làm cho tất cả họ mủi lòng, “một vài vụ án ghê tởm ở chỗ chúng ta chỉ có thể xảy ra được vì đã có thời một lũ các bồi thẩm non gan bé mật từ chối làm nghĩa vụ của họ. Bây giờ, thưa quý ngài, tôi xin nhường nghĩa vụ đó lại cho quý ngài và lương tâm của quý ngài.”

Ông ngồi xuống. West nói thầm với ông: “Đúng là bậc thầy, thưa ngài.”

Nhưng một vài thính giả của Green lại không nồng nhiệt cho lắm; sau khi bồi thẩm đoàn rút lui để nghị án, một người trong số họ, một phóng viên trẻ ở Oklahoma, đã trao đổi gay gắt với một nhà báo khác, Richard Parr của tờ Ngôi sao ở Kansas City. Bài nói của Green theo anh ta có vẻ là “kích động, thô bạo”.

“Ông ta chỉ nói sự thật thôi mà,” Parr nói. “Sự thật có thể là thô bạo. Có thể là xếp đặt nó thành câu thành cú thôi.”

“Nhưng việc gì phải dữ dằn đến thế. Thật không công bằng.”

“Gì không công bằng?”

“Cả cuộc xét xử. Những tay kia không có lấy một cơ may nào.”

“Cơ may béo bở chúng đã cho Nancy Clutter đấy thôi.”

“Perry Smith. Trời cái thằng này, đời nó mới thối nát làm sao.”

Parr nói, “Nhiều người có thể gán những chuyện tang thương cho cái thằng chó má oắt ù đó. Kể cả tôi nữa. Có thể tôi hơi quá chén, nhưng tôi tin chắc là không ai lại có thể tỉnh bơ mà giết nổi những bốn mạng người.”

“Ờ, thế bây giờ đem treo cổ thằng chó ấy lên thì sao? Thế cũng là tỉnh bơ chứ còn gì.”

Nghe lỏm được, Cha Post cũng tham gia. Ông nói, tay chuyền cho khắp chung quanh bức ảnh chụp lại bức tranh Giê-su mà Perry vẽ, “Người nào vẽ nổi bức tranh này thì không thể nào xấu hết cả trăm phần trăm đâu. Dẫu sao cũng khó mà nghĩ ra cách. Án tử hình không phải là câu trả lời: nó không cho kẻ mắc tội có đủ thời gian đi lên được với Chúa. Đôi khi tôi thất vọng.” Là người luôn vui vẻ với hai hàm răng bịt vàng và đội mũ lưỡi trai màu bạc của người góa vợ, ông vui vẻ tiếp, “Đôi khi tôi nghĩ ông Bác sĩ Man rợ kia lại có ý nghĩ đúng cơ đấy.” Bác sĩ Man rợ mà ông nhắc tới là một nhân vật hư cấu nổi tiếng trong giới độc giả thiếu niên của các tạp chí giật gân một thế hệ trước đây. “Nếu mấy cậu thanh niên trẻ tuổi các anh còn nhớ thì Bác sĩ Man rợ là một loại siêu nhân. Ông ta làm cho mình trở nên siêu phàm trong lĩnh vực y, khoa học, triết học, nghệ thuật. Gần như chẳng có gì là ông Bác sĩ già không biết hoặc không làm được. Một trong các mưu đồ của ông ta quyết định rũ sạch đi khỏi cõi trần gian này những bọn sát nhân. Trước tiên ông ta mua một hòn đảo lớn trên đại dương. Rồi ông ta và các trợ lý – có đến cả một đạo quân trợ lý được huấn luyện – bắt cóc tất cả bọn sát nhân ở cõi trần này đem đến hòn đảo nọ. Rồi thì Bác sĩ Man rợ mổ não bọn đó. Ông loại bỏ hết những phần tử mang những tư tưởng độc ác. Và khi chúng hồi phục thì chúng thành ra những công dân tử tế. Chúng không thể gây tội nữa vì cái phần xấu trong não chúng đã bị lấy đi rồi. Bây giờ cái làm cho tôi ngạc nhiên là sự mổ xẻ kia khéo lại là câu trả lời đích thực cho…”

Tiếng chuông rung, tín hiệu cho hay bồi thẩm đoàn đã trở lại, cắt lời ông. Cuộc thảo luận của bồi thẩm đoàn kéo dài bốn mươi phút. Nhiều người xem, đoán trước là sẽ có một quyết định mau lẹ, đã chẳng hề rời ghế phút nào. Tuy thế, người ta đã phải cho xe rước Thẩm phán Tate đến sau khi ông tranh thủ về nhà một lúc cho ngựa nghẽo ăn. Một chiếc áo chùng đen mặc vội mặc vàng nhấp nhô gợn nếp quanh ông khi cuối cùng ông đến và hỏi, song khi ông hỏi thì lại với một vẻ nhàn nhã và đạo mạo thật là gây ấn tượng: “Quý ngài bồi thẩm, quý ngài đã nghị án xong chưa?” Ông chủ tịch bồi thẩm đoàn đáp: “Thưa quý ngài, đã ạ.” Viên tùy phái của tòa mang bản nghị án được niêm phong đến.

Tiếng còi xe lửa rúc, tiếng ầm ầm náo động của một chuyến tàu tốc hành Santa Fe lại gần, lọt vào phòng xử. Giọng thấp trầm của Tate quyện vào với những tiếng thét của đầu máy xe lửa khi ông đọc: “Điều một. Chúng tôi, bồi thẩm đoàn, thấy rằng bị cáo Richard Eugene Hickock là thủ phạm vụ án mạng cấp một và hình phạt là tử hình.” Rồi, tựa như quan tâm đến phản ứng của tù nhân, ông ngó xuống, chúng đứng trước mặt ông, tay bị còng gắn chặt vào người gác; chúng điềm nhiên nhìn đăm đăm lại ông cho tới lúc ông đọc bảy điều tiếp theo: ba tội trạng nữa cho Hickock và bốn cho Smith.

“… Và hình phạt là tử hình”; mỗi lần Tate đi tới chỗ án quyết, ông lại đọc nó lên với cái giọng tối và rỗng, cái giọng tựa như vọng lại tiếng còi ai oán bây giờ đang nhạt nhòa đi của đoàn tàu. Rồi ông giải tán bồi thẩm đoàn (“Quý ngài đã làm xong một công vụ dũng cảm”), và những người bị khép án được giải đi. Đến cửa, Smith bảo Hickock, “Bọn này không phải là đám bồi thẩm non gan bé mật đâu hả!” Cả hai thằng cười rộ, và một nhà nhiếp ảnh liền chụp ảnh chúng lúc đó. Tấm ảnh xuất hiện trên một tờ báo bang Kansas với dòng tít “Tiếng cười cuối cùng?”

Một tuần sau bà Meier ngồi nói chuyện với người bạn trong phòng khách. “Vâng, bây giờ quanh đây yên tĩnh lại rồi,” bà nói. “Tôi nghĩ chúng ta nên lấy làm biết ơn rằng mọi việc đã được thu xểp ổn thỏa. Nhưng tôi vẫn cảm thấy buồn vì chuyện đó. Tôi chưa có chuyện trò gì nhiều với Dick nhưng tôi và Perry thì biết nhau khá rõ. Chiều hôm ấy, sau khi anh ta nghe nghị án và được đưa trở lại về đây – tôi đã đóng cửa bếp lại để không nhìn thấy anh ta, tôi cứ ngồi lì bên cửa sổ bếp nhìn đám đông đang ra khỏi tòa án. Ông Cullivan, ông ấy nhìn lên thấy tôi liền vẫy. Ông bà Hickock. Tất cả đang đi ra. Đúng sáng hôm ấy tôi nhận được một lá thư dễ mến của bà Hickock; bà đã đến thăm tôi nhiều lần trong khi tòa còn tiếp tục xử, tôi ước gì mình giúp được bà ấy, có điều mình nói gì được với người ta trong tình cảnh thế này? Nhưng khi mọi người đã đi hết cả rồi, tôi vừa bắt tay rửa vài cái đĩa thì nghe thấy anh ta khóc. Tôi vặn rađiô lên. Để khỏi nghe thấy. Nhưng không thể. Khóc y như đứa trẻ. Trước đây anh ta không bị suy sụp bao giờ, chưa tỏ ra một dấu hiệu nào như thế. Thế là tôi đến với anh ta. Đến cửa xà lim. Anh ra thò tay ra. Anh ta muốn tôi cầm tay anh ta, tôi liền cầm và anh ta chỉ nói, ‘Tôi đang nhục muốn chết được.’ Tôi muốn đi kiếm Cha Goubeaux – tôi nói ngày mai việc đầu tiên tôi làm là nấu cơm Tây Ban Nha cho anh ta – nhưng anh ta chỉ nắm lấy tay tôi chặt hơn.

Và đêm hôm ấy, trong tất cả mọi đêm, chúng tôi đã để anh ta một mình. Wendle và tôi gần như chẳng bao giờ đi đâu, nhưng chúng tôi đã có một cam kết từ lâu và Wendle không muốn phá vỡ nó. Nhưng rồi tôi sẽ luôn luôn phải hối tiếc rằng chúng tôi đã để anh ta ở lại một mình. Hôm sau tôi làm cơm Tây Ban Nha. Anh ta không đụng đến. Hoặc ít nói chuyện với tôi. Anh ta thù tất cả mọi người. Nhưng buổi sáng người ta đến đưa anh ta về trại giam thì anh ta cảm ơn tôi và cho tôi một bức ảnh của anh ta. Một bức ảnh Kodak nho nhỏ chụp anh ta lúc mười sáu tuổi. Anh ta nói muốn tôi nhớ về anh ta giống như đứa trẻ ở trong ảnh ấy.

Gay go nhất là lúc chào từ biệt. Khi mình biết anh ta sẽ đi đâu, cái gì sẽ đến với anh ta. Con sóc của Perry, nó chắc là nhớ anh ta. Cứ vào trong xà lim tìm. Tôi có cho nó ăn nhưng nó chẳng bén mảng gì đến tôi. Nó chỉ thích Perry thôi.”

Nhà tù rất quan trọng đối với nền kinh tế của hạt Leavenworth, bang Kansas. Hai nhà tù của bang, một cho nam, một cho nữ đều nằm ở đây; cả nhà tù Leavenworth nữa, nhà tù Liên bang lớn nhất, và, ở Fort Leavenworth, nhà tù quân sự chủ yếu của đất nước, Trại Kỷ luật ghê gớm của không quân và lục quân Mỹ. Nếu tất cả những người tù trong các nơi đó được tự do thì họ có thể lập nên được một thành phố nho nhỏ.

Nhà tù lâu đời nhất là Nhà tù Nam bang Kansas, có những tháp canh và quét màu đen trắng, có thể phân biệt được bằng mắt với một thị trấn nông thôn vốn dĩ bình thường, Lansing. Xây từ thời Nội chiến, nó tiếp nhận nhân khẩu đầu tiên vào năm 1864. Từ đó đến nay dân số bình quân của nó quanh quẩn ở con số hai nghìn; viên quản ngục hiện nay, Sherman H. Crouse, giữ một bản khai liệt kê tổng số tù mỗi ngày phân theo chủng tộc (chẳng hạn, Trắng 1405, Da màu 360; Mexico 12, Da đỏ 6). Dù thuộc chủng tộc gì, mỗi người tù đều là một công dân của cái làng bằng đá tồn tại bên trong những bức tường dựng đứng có súng máy canh giữ này – mười hai mẫu Anh đường phố xi măng và những khối xà lim cùng xưởng thợ.

Ở khu vực phía Nam của tổ hợp nhà tù dựng lên một ngôi nhà nho nhỏ kỳ lạ: một tòa nhà hai tầng tối tăm hình thù như một cỗ áo quan. Chỗ này, thường gọi chính thức là Nhà Phân biệt Đối xử và Biệt giam, là một nhà tù nằm trong một nhà tù. Đám tù với nhau gọi tầng dưới là Cái Hố – chỗ mà đám tù khó trị, đám gây rối “rắn đầu rắn mặt” thỉnh thoảng bị đem đày xuống. Tầng trên đi lên bằng cầu thang sắt xoáy tròn ốc; ở trên đỉnh của nó là Dãy Chết.

Lần đầu tiên những kẻ giết nhà Clutter leo lên cầu thang này là một buổi chiều mưa cuối tháng Tư. Đến Lansing sau một chuyến đi bốn trăm dặm kéo dài tám giờ bằng xe hơi từ Garden City, những kẻ mới đến đã được lột bỏ quần áo, tắm vòi sen, cạo trọc đầu và cấp cho hai bộ đồng phục tù bằng vải bò cùng giày mỏng nhẹ (trong hầu hết các nhà tù Mỹ, những đôi giày như thế này là thứ để đi chân quen thuộc của tù); rồi có lính gác mang vũ khí kèm bên đưa họ đi qua ngôi nhà kiểu áo quan trong ánh chiều tà ẩm ướt, đẩy họ chen nhau lên những bậc thang bằng sắt xoáy ốc rồi vào hai ngăn xà lim trong số mười hai ngăn liền sát nhau, tức là Dãy Chết của Lansing.

Các xà lim đều giống nhau. Chúng rộng hơn hai mét và dài hơn ba mét, không bày biện gì ngoài một cái giường cá nhân, một góc vệ sinh, một bồn rửa mặt, và một bóng đèn trên đỉnh đầu đêm ngày không lúc nào tắt. Cửa sổ xà lim rất chật, không những có chấn song mà còn được che bằng một lưới dây thép tối như tấm chàng mạng người góa phụ; do vậy người qua đường sẽ chỉ nhìn thấy lờ mờ mặt mũi những người chịu án tử hình mà thôi. Nhưng tù thì có thể nhìn ra ngoài khá rõ; cái họ nhìn thấy là một khu đất trông bẩn thỉu, mùa hè được dùng làm bãi đấu bóng chày, bên kia khu đất là mẩu tường nhà tù và trên tường nữa là một mẩu trời.

Tường xây bằng đá thô; bồ câu làm tổ trong các khe đá. Một cánh cửa bằng sắt gỉ, đặt ở phần tường mà người ở trong Dãy nhìn thấy được, mỗi khi mở là các bản lề lại kêu ken két rên rỉ làm đám chim bồ câu bay vù lên. Cánh cửa dẫn vào một nhà kho như hang động, trong này ngay những ngày âm u không khí cũng ẩm ướt và lạnh. Một số đồ vật được giữ ở đó: những đống kim loại mà tù dùng làm biển số xe hơi, gỗ xẻ, máy móc cũ, các thứ đồ linh tinh lang tang của bóng chày – và cả một cái giá gỗ không sơn phảng phất mùi là phòng xử án tử hình của bang; khi một người được đưa đến đây để treo cổ, đám tù nói người đó “đi đến Cái Xó” hay nói cách khác là “đến tham quan nhà kho”.

Theo tuyên án của tòa, Smith và Hickock được ấn định là sẽ đi thăm nhà kho sáu tuần nữa kể từ nay: một phút sau nửa đêm ngày thứ Sáu, 13 tháng Năm, năm 1960.

Kansas bỏ án tử hình năm 1907; năm 1935, do miền Trung Tây thình lình rộ lên những tên sát nhân chuyên nghiệp điên khùng (Alvin “Tổ Sư Ghê” Karpis, Charles “Bảnh Trai” Floyd, Clyde Barrow và ả tình nhân giết người của hắn, Bonnie Parker), các nhà lập pháp của bang đã bỏ phiếu phục hồi nó. Tuy nhiên, không phải đến tận năm 1944 thì “đao phủ” mới được dịp thi thố tay nghề; hơn mười năm sau đó, ông ta đã được trao thêm chín dịp. Nhưng trong sáu năm, hay từ 1954, người làm nhiệm vụ treo cổ ở Kansas không hề nhận được một tấm séc thù lao nào (chưa kể Trại Kỷ luật Không quân và Lục quân cũng có một giá treo cổ ở đó). Ông George Docking quá cố, Thống đốc bang Kansas từ 1957 tới 1960 phải chịu trách nhiệm về thiếu sót này, vì ông đã thẳng thừng chống án tử hình (“Tôi chỉ là không thích giết người thôi”).

Bây giờ, vào tháng Tư năm 1960 – ở các nhà tù Mỹ có một trăm chín chục người đang chờ hành quyết dân sự; năm người, trong đó bao gồm những kẻ giết nhà Clutter, là những người trọ tại Lansing. Thỉnh thoảng, những vị khách quan trọng đối với nhà tù đã được mời đến “nhòm một chút vào Dãy Chết”, như một viên chức cao cấp đã gọi. Những người nhận lời mời được giao cho một người bảo vệ, người này, trong khi dẫn du khách đi dọc hành lang sắt chạy trước các xà lim tử tù, hình như chỉ cốt nhận diện tử tù với cung cách mà ắt ông ta cho là thủ tục khôi hài. “Và đây,” ông ta nói với một vị khách năm 1960, “đây là ông Perry Edward Smith. Còn cạnh đây là bồ của ông Smith, ông Richard Eugene Hickock. Và ở đằng kia chúng ta có ông Earl Wilson. Và sau ông Wilson thì gặp ông Bobby Joe Spencer. Còn về vị cuối cùng kia thì tôi chắc ngài đã nhận ra ông Lowell Lee Andrews nổi tiếng của chúng ta.”

Earl Wilson, một người da đen vạm vỡ, hát thánh ca ở nhà thờ, bị tuyên án tử hình vì bắt cóc, hiếp và hành hạ một thiếu phụ da trắng; nạn nhân, tuy sống sót, đã phải mang nhiều di chứng nghiêm trọng. Bobby Joe Spencer, da trắng, một thanh niên nhiều nữ tính, thú thật là đã giết một bà cụ ở Kansas City, chủ cái nhà hắn trọ. Trước khi rời nhiệm sở vào tháng Giêng năm 1961, Thống đốc Docking, người đã thất bại trong cuộc tái cử (phần lớn do thái độ phản đối án tử hình của ông) đã giảm án của hai người này xuống thành tù chung thân, nói chung có nghĩa là sau bảy năm chúng sẽ có thể được tạm tha theo lời hứa danh dự. Nhưng Bobby Joe Spencer lại giết người ngay: dùng dao đâm chết một tù nhân trẻ tuổi khác, địch thủ cùng tranh giành với hắn sự trìu mến của một bạn tù nhiều tuổi (như một viên chức cảnh sát nói: “Đúng là hai thằng lưu manh đánh nhau tranh một con đực gái”). Vụ này kiếm về cho Spencer một án chung thân thứ hai. Nhưng công chúng chẳng biết nhiều đến Wilson hay Spencer; so với Smith và Hickock, hay với người thứ năm ở Dãy, Lowell Lee Andrews, báo chí có phần đã xem nhẹ chúng.

Hai năm trước đây, Lowell Lee Andrews, một thanh niên mười tám tuổi tướng tá đồ sộ dềnh dàng, mắt kém, đeo kính gọng sừng và nặng gần tạ rưỡi, đã từng là một sinh viên ưu tú chuyên ngành Sinh học ở Đại học Kansas. Tuy hắn là một người đơn độc, khép kín và ít trò chuyện, những người quen biết hắn cả ở đại học lẫn ở thị trấn quê Wolcott bang Kansas đều coi hắn là kẻ có “bản chất lành mạnh” (sau này một tờ báo Kansas đăng một bài về hắn với đầu đề “Chàng trai tốt nhất ở Wolcott”). Nhưng bên trong gã sinh viên điềm tĩnh đó lại tồn tại một con người thứ hai không ai ngờ tới, một người với những xúc cảm bị thui chột và đầu óc ngoắt ngoéo qua đó những ý nghĩ lạnh băng cuồn cuộn chảy theo những hướng tàn bạo. Gia đình hắn – bố mẹ và một người chị hơi nhỉnh tuổi hơn, Jennie Marie – chắc sẽ sững sờ không tin nổi nếu biết rằng Lowell Lee, đứa con trai xuất sắc, người em yêu dấu, cái đứa đã mơ màng nhăng nhít suốt cả mùa hè và mùa thu năm 1958, nó toàn tính kế đầu độc họ.