Chương 371: Bất Ngờ Mất Tích

Nạp Thiếp Ký

Đăng vào: 2 năm trước

.

Hơi trầm ngâm, Dương Thu Trì nghĩ ra một biện pháp khác. Kinh qua tìm kiếm kỹ, quả nhiên hắn phát hiện một cọng tóc trên gối của Thúy Hoàn, sau đó tìm được vài sợi nữa ở chỗ trang điểm của ả.

Kinh qua kiểm tra phân biệt, những sợi tóc này là của nữ, nhóm máu tương đồng, nhưng khác biệt nhóm máu với dấu máu trên hài. Như vậy chứng minh dấu máu trên hài đó chính là của người chết. Dương Thu Trì lại lấy máy chụp kỹ thuật số ra, chuyển tới hình chụp dấu chân máu khả nghi ở hiện trường, tiến hành so sánh với đôi hài đang có trong tay hắn. Do hài ở thời cổ đại đều được chế tác thủ công, nên hoa văn dưới đáy hài không giống nhau. Và sau khi so sánh thật kỹ, dấu giày không tìm thấy chủ nhân ở hiện trường có hoa văn lớn nhỏ hoàn toàn phù hợp với hoa văn dưới đế hài của Thúy Hoàn. Hiện giờ thì rõ rồi, Thúy Hoàn vao canh 5 đến Lê Xuân Viên, và khi đạp phải máu của Xuân Hồng, cô ả kịp thời phát hiện, cởi giày ra, sau đó đi chân không rời khỏi Lê Xuân Viên, cho nên không để lại dấu chân máu trên đường ra. Khi về tới nơi ở, ả lập tức tẩy rửa sạch hài, sau đó đặt lên cửa sổ phơi khô. Nhưng ả không hề tẩy rửa sạch hết, cho nên ở thành giày có lưu lại dấu máu bằng đầu mũi châm, chứng minh là ả đã có đến hiện trường.

Nhưng mà, điều này chỉ có thể chứng minh ả có đến hiện trường hung án mà thôi, ngoại trừ từ cái vòng tròn tròn kia của Xuân Hồng vẽ mà suy đoán ra hung thủ là Thúy Hoàn, không có bất kỳ chứng cứ thuyết phục nào khác chứng minh Xuân Hồng bị Thúy Hoàn đâm chết cả. Và cũng có khả năng Xuân Hồng bị người khác giết rồi, Thúy Hoàn mới đến Lê Xuân Viên, vô ý đạp lên máu của Xuân Hồng.Nơi này còn có một tình tiết trọng đại cần phải xác định cho rõ, chính là Thúy Hoàn đến Lê Xuân viên tìm Xuân Hồng để làm cái gì? Căn cứ lời lão gác cổng là Long lão hán, thì Thúy Hoàn đến tìm vật Bành Hạ Hỉ rớt lại tại Lê Xuân Viên. Điểm này thì cần phải tìm Bành Hạ Hỉ hỏi thử. Dương Thu Trì thu thập rương pháp y vật chứng, rời khỏi phòng, Nam Cung Hùng bước tới tiếp lấy rương. Dương Thu Trì hỏi Bành Hạ Hỉ và Thủy Uyển Kỳ: “Bành ông, tối qua các người quay về rồi, khoảng canh năm Thúy Hoàn đã từng đến Lê Xuân Viên, các người có biết không?”

Bành Hạ Hỉ và Thủy Uyển Kỳ cùng nhìn nhau lắc đầu. Thủy Uyển Kỳ nói: “Từ canh hai ta đã ngủ rồi, không rõ là Thúy Hoàn có rời khỏi phủ đến đó hay không, dường như lão gia trở về thì nó còn ở đó, đúng không lão gia?”

Bành Hạ Hỉ cũng nói: “Đúng vậy, chúng ta trở về từ khoảng canh ba đến canh bốn, lúc đó Thúy Hoàn còn có mặt, nó còn giúp ta mở cửa vườn. Ta và tiện nội nói chuyện một hồi thì đi ngủ, không biết nó có nhân lúc chúng ta ngủ rồi mà lẻn đi hay không. Hay là để ta gọi gác cổng vào hỏi thử.” Bành Hạ Hỉ quay đầu dạy người hầu đi gọi gác cổng.

Dương Thu Trì nói: “Gác cổng của Lê Xuân viên là Long lão hán chứng minh ả có đến Lê Xuân viên vào canh năm.” Đưa đôi hài thêu của Thúy Hoàn cầm trong tay lên, hắn tiếp:

“Vừa rồi ta vừa kiểm tra xong, đôi hài này có dính máu của Xuân Hồng, chứng minh là Thúy Hoàn có đến hiện trường hung án. Ả là kẻ hiềm nghi phạm tội trọng đại, bổn quan nhất định phải bắt ả quy án.”

Bành Hạ Hỉ và Thủy Uyển Kỳ nghe thế đều trán ứa mồ hôi. Thủy Uyển Kỳ lập tức nhớ tới con trai của mình, kinh khủng kêu lên: “Hay là ả Thúy Hoàn đó sau khi giết người rồi bắt Phúc nhi của chúng ta làm con tin chạy rồi a? Phúc nhi của tôi….! Lão gia, ông mau nghĩ biện pháp tìm lại bằng được Phúc nhi của chúng ta đi a!”

Bành Hạ Hỉ già rồi mới có con, Bành Gia Phúc là con trai duy nhất của lão, nên yêu như viên minh châu nâng niu trên lòng bàn tay, nghe câu này tức thì hoảng thần, kinh hoàng rú lên: “Đúng đúng! Lập tức tìm!” Lão chuyển thân quát bảo các gia nô đang đứng sau lưng: “Con mẹ các ngươi còn đứng đực ra đó làm cái gì? Còn không mau đi tìm kiếm khắp nơi coi tiểu thiếu gia ở đâu!” Đám gia nô đó nghe thế, vội vã chạy đi tứ tán kiếm tìm. Bành Hạ Hỉ lại lớn tiếng dặn: “Còn nữa, một khi phát hiện tiên nhân Thúy Hoàn đó, lập tức trói lại đưa về giao cho Dương tước gia! Ai…! Bành gia chúng ta sao lại thu lưu loại tiện nhân như thế này chứ!”

Dương Thu Trì nói với Nam Cung Hùng: “Ngươi lập tức sắp xếp một đội hộ vệ tham gia truy tìm Thúy Hoàn,” Rồi quay sang Bành Hạ Hỉ và Thủy Uyển Kỳ đang lòng gấp như lửa đốt đó, bổ sung thêm một câu, “Cần phải cứu tiểu thiếu gia bình an trở về.” Nam Cung Hùng lập tức đi sắp xếp người đi làm nhiệm vụ. Bành Hạ Hỉ và Thủy Uyển Kỳ mừng rỡ, luôn miệng cảm ơn. Dương Thu trì lại quay lại phòng của Thúy Hoàn, tử tế tìm kiếm một lúc nữa, không phát hiện những vật khả nghi gì khác. Đến lúc này, người gác cổng bị đưa tới, nói là tối qua y nhất mực thủ cổng lớn, không thấy Thúy Hoàn từ cửa chính đi ra. Dương Thu Trì nói: “Ả muốn lẻn đi ra ngoài, xem ra không cần qua cửa chính.”

Bành Hạ Hỉ gật đầu: “Phía sau tiểu viện tử của chúng ta có cửa sau, nó có chìa khóa. Nhưng mà sớm như vậy nó đến Lê Xuân viên để làm gì?”

Dương Thu Trì hỏi: “Đó là vấn đề ta muốn hỏi Bành ông, Bành ông và Bành phu nhân có biết không?”

Hai người đều đưa mắt nhìn nhau, cùng lắc đầu. Bành Hạ Hỉ nói: “Chúng ta đều không biết nó ra ngoài như thế, đương nhiên càng không biết nó đi để làm gì.”

“Ta nghe Long lão đầu gác cổng Lê Xuân viên, ả đang đi tìm vật của Bành ông thất lạc, có chuyện này hay không?” Dương Thu Trì nhìn Bành Hạ Hỉ chằm chằm hỏi.

“Mất vật gì đó? Lão hủ tối qua đâu có mất vật gì, càng không bảo nó đến Lê Xuân viên làm chi a.”

Thủy Uyển Kỳ nói: “Đúng a, tối qua lão gia về rồi, chỉ nói là Dương tước gia đành cờ thắng Xuân Hồng cô nương, lúc đó nó có ở bên cạnh, đang phục thị lão gia rửa chân thay quần áo.”

Dương Thu Trì động tâm, hỏi: “Các ngươi lúc đó đã nói những gì?”

Mặt Thủy Uyển Kỳ hơi ửng hồng, liếc Bành Hạ Hỉ không nói. Bành Hạ Hỉ cười miễn cưỡng, nói: “Tước gia, chúng tôi nói về ngài….”

Dương Thu Trì phẫy tay: “Không sao, Bành ông, chuyện này quan hệ đến phá án, quan hệ đến việc làm rõ mục đích chân chính của Thúy Hoàn đến Lê Xuân Viên tối qua là gì, và e rằng từ đây còn có thể phát hiện nơi hạ lạc của tiểu thiếu gia, cho nên hai vị tất phải như thật tương cáo.”

Khi nghe sự tình này liên quan đến biết được nơi hạ lạc của Bành Gia Phúc, hai người đều rất quan tâm. Thủy Uyển Kỳ liếc nhìn Bành Hạ Hỉ, xong mới nói: “Lão gia nói tối qua tước gia dường như rất thích Xuân Hồng cô nương, liền mượn cớ đánh cờ vây để đánh cuộc, muốn mượn dịp đó gần gũi Xuân Hồng. Sau đó tước gia quả nhiên thắng, rồi cùng Xuân Hồng cô nương lên khuê phòng của cổ, và có khả năng là tước gia…. tước gia….” Thủy Uyển Kỳ nói hai lần tước gia rồi dường như không tiện nói tiếp, đỏ mặt nhìn lén Dương Thu Trì, bấy giờ mới hạ thấp giọng tiếp: “Có khả năng là tước gia…. quá mạnh, khiến cho Xuân Hồng cô nương…. khóc luôn. Tước gia đi rồi…. dường như rất thương xót cho Xuân Hồng cô nương, còn măng thất gia nữa.”

Lão họ Bành nói nói xấu gì ta vậy trời? Dương Thu Trì quả thật là khóc cười không được, quét mắt, thấy Tống Vân Nhi đanh gương mặt xinh nhìn hắn, xem dáng vẻ dường như không cắn hắn một cái không được vậy. Dương Thu Trì cười khổ, dường như vừa nói với hai người Bành Hạ Hỉ vừa giải thích với Tống Vân Nhi: “Ta căn bản không đụng tới Xuân Hồng cô nương tí gì, lúc đó cô ta và ta đều uống lầm xuân dược, ta phát hiện xong chạy ngay. Bành ông, ông nói như vậy… chẳng phải là hại ta sao?” Miệng thì nói như vậy, nhưng Dương Thu trì biết rất rõ, rằng loại sự tình này càng nói rõ thì càng bị nghi ngờ.

Bành Hạ Hỉ vội đáp: “Dạ dạ, tôi lúc đó cũng vì uống say rồi nên nói mấy câu đùa với tiện nội cho vui vậy thôi, không có người ngoài nào biết.”

“Sao lại không? Ả Thúy Hoàn đó không phải ở bên cạnh phục thị các ngươi hay sao? Ả nhất định là nghe thấy….” Nói đến đây, Dương Thu Trì chợt động tâm, chẳng lẽ ả Thúy Hoàn này nghe Bành Hạ Hỉ nói thế mới đến Lê Xuân Viên hay sao? Hắn vội hỏi: “Bành ông, các người ngoại trừ nói lời này còn nói gì khác nữa không? Nhất định phải kể thật ra hết.”

Thủy Uyển Kỳ đáp: “Lão gia chúng tôi hợp kế hai người, nói nếu như tước gia thật sự nhìn trúng Xuân Hồng cô nương, thì chúng tôi sẽ tìm cho Thất gia một phòng khác, nhượng Xuân Hồng cô nương cho tước gia ngài. Nhưng lão gia nói Xuân Hồng cô nương tối qua dường như không vui lắm, hôm nay phải khuyên cô ta một chút. Chỉ nói có bấy nhiêu thôi chứ không nói gì nữa khác.”

Khuyên Xuân Hồng? Nếu như Thúy Hoàn nhân vì nghe phu thê Bành Hạ Hỉ nói thế rồi đến tìm Xuân Hồng, thì chuyện này có quan hệ gì tới Thúy Hoàn chứ? Hai người họ quen nhau, nói không chừng quan hệ còn rất tốt, Thúy Hoàn muốn đi khuyên cô ta trước hay sao? Khuyên cái gì? Vì sao không để tới ngày hôm sau hẵng khuyên mà phải đêm hôm khuya khoắt lén chạy tới khuyên? Mọi thứ đều trong cõi mê, chỉ có bắt được Thúy Hoàn mới phá giải được.

Dương Thu Trì biết Bành Hạ Hỉ và Thủy Uyển Kỳ quan tâm nhất hiện giờ là đứa con trai độc nhất của họ, ngẫm nghĩ xong, nói: “Từ lời đối thoại của các người, ta không tìm được lý do gì có thể khiến Thúy Hoàn mang tiểu thiếu gia chạy trốn cả. Chỉ bằng cái đó chẳng thể phát hiện được tung tích của ả.” Mặt Bành Hạ Hỉ và Thủy Uyển Kỳ tức thì thất vọng, Thủy Uyển Kỳ bắt đầu sụt sùi khóc. Dương Thu Trì bảo:

“Vừa rồi ta đến phòng của Thúy Hoàn kiểm tra qua. Quần áo, ngân lượng, trang sức của ả vẫn còn, cho thấy không phải dự mưu bắt cóc tiểu thiếu gia, có khả năng là đã xảy ra chuyện gì đó. Bành ông, hai vị phái người đi hỏi thử, hôm nay người nhìn thấy Thúy Hoàn cuối cùng là ai, có nghe ả nói gì hay không… có thể từ đó mà tra ra manh mối.”

Bành Hạ Hỉ gật đầu, vội phái người đi tra hỏi, đồng thời an bài cơm tối. Dương Thu Trì bận rộn cả ngày, nhưng dù sao cũng phải ăn cơm. Chờ cơm được dọn lên, Bành Hạ Hỉ và Thủy Uyển Kỳ hai người tuy bồi tiếp Dương Thu Trì và Tống Vân Nhi, nhưng vì lo cho con trai nên không có lòng nào ăn uống. Dương Thu Trì và Tống Vân Nhi ăn vội ăn vàng rồi trở về Trì Kính trai nơi ở của mình nghỉ ngơi chờ tin tức. Hồng Lăng cấp cho Dương Thu Trì và Tống Vân Nhi mỗi người một cốc trà thơm, rồi ngồi cạnh bên nghe hai người nói chuyện. Dương Thu Trì thấy Tống Vân Nhi rầu rầu, chọc vào tay nàng hỏi: “Ê! Có gì vậy?”

Tống Vân Nhi trước giờ vốn nhanh nhẹn thẳng ruột ngựa: “Tối qua rốt cuộc huynh và Xuân Hồng cô nương đó có hay là không có… cái đó?”

Dương Thu Trì cười, hắn biết Tống Vân Nhi nhất mực tồn tại nỗi bức rức trong lòng, liền nắm chặt tay nàng bảo: “Ta thật không có cùng Xuân Hồng cô nương làm chuyện đó.” “Nhưng mà hai người đều phục phải xuân dược mà?”

“Nhưng, nhưng….” Dương Thu Trì móc từ trong lòng ra cái ngân trâm của Liễu Nhược Băng, chọc chọc vào đầu ngón tay, vừa xoay xoay vừa nói: “Ta vô ý nhìn thấy chiếc ngân trâm này của Liễu tỷ tỷ, nhớ tới tỷ ấy, nhớ tới muội, nhớ tới lời ta đã nói đã hứa. Cho nên ta đã dùng ngân trâm chọc vào chân của mình, lợi dụng cơn đau mà phân tán dục vọng, rồi bỏ chạy. Thiệt đó, không tin muội nhìn này!”

Dương Thu Trì vạch y bào, để lộ đùi ra, phần ngoài của đùi quả nhiên có một vết thương bị đâm nho nhỏ, rõ ràng là mới vừa hình thành.

Tống Vân Nhi đưa tay sờ sờ, đau lòng hỏi: “Ca, còn đau không?” Hồng Lăng nghe Dương Thu Trì thụ thương, cũng vội vã đến xem,thấy vết thương không sâu mới yên tâm. Dương Thu trì bỏ áo xuống, lắc lắc đầu: “Không hề gì, đã không còn đau nữa.” Bầu mắt Tống Vân Nhi đỏ hồng, nói; “Ca, thật xin lỗi, Vân nhi trách lầm huynh rồi.”

Dương Thu Trì co rút mặt lại làm ra vẻ rất tủi thân: “Chỉ có câu xin lỗi không mà được hay sao?”

“Vậy… vậy thì làm sao bây giờ?”

Mặt Dương Thu Trì hơi ngước lên, ngón tay chỉ vào má. Tống Vân Nhi biết Dương Thu Trì đang giở trò, đỏ mắt liếc nhìn Hồng Lăng, Hồng Lăng cười hi hi đứng dậy bước đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài làm ra vẻ như đang thưởng thức phong cảnh đẹp vô hạn của trời thu vậy. Tống Vân Nhi mượn cơ hội này như con chuồn chuồn giởn nước hôn nhanh lên má Dương Thu Trì.

Hắn giả vờ như vừa uống một ly rượu thuần cực mạnh: nhắm mắt, hít một hơi thật sâu, sau đó thở dài một tiếng, ngất ngây lảo đảo như say, khiến cho Tống Vân Nhi cười nắc cười nẻ. Đêm dần khuya, Chiêm bộ khoái cùng mọi người trở về, bẩm báo là đã điều tra một bộ phận người quen với Bành Tứ, tất cả đều nói trước giờ chỉ có Bành Tứ là bắt nạt người khác, chứ chưa hề nghe y bị người khác đánh đá gì cả. Tại Ân Dương trấn này, e rằng chỉ có Bành lão gia tử, Bành lão thất và Thủy Uyển Kỳ mới dám động đến y. Do đó, họ không hề phát hiện Bành Tứ đã bị ai đánh vào tháng trước, và cũng không dò hỏi được liệu xem y bị té hay bị vật gì đập trúng đầu vào thời điểm này. Điều này không nằm ngoài ý liệu của Dương Thu Trì.

Bọn họ mới chỉ điều tra có một buổi tối, sao có thể phát hiện được manh mối dễ dàng như vậy chứ. Hắn cho bọn họ nghỉ ngơi rồi mai hẳn tiếp tục. Thứ điều tra thăm dò này không thể làm gấp, nếu không sẽ dễ dàng để lọt những tin tức trọng yếu, để rồi có thực hiện cũng chẳng có tác dụng gì. Tiếp đó, hộ vệ đội và các gia nô được phái đi tìm Thúy Hoàn và Bành Gia Phúc cũng lục tục quay về tay không. Tất cả đều thưa là đã tìm hết mọi ngóc ngách trong trấn này mà không có bóng dáng gì của hai người, cũng không có ai trong trấn biết được tung tích của hai người ở đâu cả.

Hỏi hết người trong Bành gia trang, không có ai thưa là đã nhìn thấy Thúy Hoàn từ trưa hôm nay. Người gác cổng nói không thấy Thúy Hoàn ẵm tiểu thiếu gia ra ngoài. Gia nô đã tìm nát hết những chỗ có thể giấu người trong Bành gia trang, nhưng cũng không có tung tích gì. Như vậy có thể nói, từ giữa trưa hôm nay sau khi tiểu thiếu gia Bành Gia Phúc bị mẹ đánh cho một bạt tay,Thúy Hoàn đã ẵm nó đi rồi biến mất giống như bốc hơi khỏi thế gian này vậy. Thủy Uyển Kỳ đã khóc chết lên chết xuống, mắt sưng như hai quả đào, cứ hối hận là vì sao đã đánh con như vậy, và nếu con trai xảy ra chuyện gì thì nàng ta không muốn sống nữa.

Bành Hạ Hỉ phái mấy thiếp thân nha hoàn theo sát Thủy Uyển Kỳ, sợ nàng ta nghĩ không thông rồi tìm dây treo cổ chết thì nguy! Triệu Tân Nhạc từ sáng sớm đã mang theo cân ban đến Tỳ bà nham xem Tiên nữ hội, mãi cho đến tối khi lễ hội kết thúc mới trở về Bành gia trang. Y nghe nói mới chỉ có một ngày mà đã xảy ra nhiều chuyện như vậy, cảm thấy vô cùng kinh hãi, nhưng khi nhìn thấy Thủy Uyển Kỳ khóc đến nỗi sưng húp hai mắt, lòng đau như cắt, nhưng không dám biểu lộ ra ngoài, chỉ quan tâm an ủi để nàng ta đừng nghĩ quẩn mà thôi: “Tiểu thiếu gia cát nhân thiên tướng, nhất định gặp hung hóa cát, ngộ nạn nhưng vẫn an lành….”

Án chiếu theo hành trình sắp xếp sẵn, thì ngày hôm nay bọn Dương Thu Trì sẽ quay về Ba châu ngay sau khi xem xong Tiên nữ hội. Nhưng hiện giờ Ân Dương trấn xảy ra hai án mạng cùng một lúc, ngay cả tiểu thiếu gia, con trai độc nhất của chú họ hữu bố chánh sứ của Tứ Xuyên, cũng đã mất tích cùng với thiếp thân tiểu nha hoàn của mẹ nó, nên Dương Thu Trì dù có muốn đi cũng không thể đi được, chỉ có thể “tọa trấn” tại Ân Dương trấn, không tra cho mọi chuyện rõ ràng thì tuyệt đối không “thu binh”.

Triệu Tân Nhạc là tri phủ của Bảo Ninh phủ, án mạng xảy ra ở đây thuộc quyền quản hạt của y, án phá không được thì y sẽ bị liên lụy. Hơn nữa, án này lại liên quan đến cấp trên trực tiếp của y, tìm không thấy Bành Gia Phúc, không thể có câu trả lời rõ ràng, thì cho dù có dùng roi đánh đuổi y đi, y cũng không thể rời khỏi đó được. Huống chi, nếu ở lại, y còn có nhiều cơ hội ở bên cạnh Thủy Uyển Kỳ đẹp như tiên nữa! Đáng tiếc là y chẳng biết làm sao để phá hai vụ án này, chỉ ký thác mọi hy vọng lên người Dương Thu Trì.

Tin tức hai quan tri phủ, tri châu cùng đến ở lại Ân Dương trấn phá án nhanh chóng lan khắp cả Ân Dương trấn. Toàn bộ già trẻ bé lớn của Ân Dương trấn đều tham gia hành động tìm kiếm Bành Gia Phúc và Thúy Hoàn cùng với gia nô của Bành gia trang và một nhóm hộ vệ do Dương Thu Trì phái đi. Họ lật tung mọi ngõ ngách, ao hồ, sơn cốc quanh Ân Dương Trấn, nhưng tìm suốt cả ngày mà chẳng ra tung tích gì. Ngược lại, Chiêm Chánh Chiêm bộ đầu phụ trách điều tra án của Bành Tứ lại có đột phá trọng đại. Y đã tra ra vào một tháng trước, Bành Tứ uống say trên đường về ngang qua một hẻm vắng đã bị một người nào đó lén ném đá vào đầu, phải đi tìm lang trung trong trấn để chữa thương. Dương Thu Trì rất vui khi nghe tin này. Phá án thì phải phá từng cái một, án của Xuân Hồng đã thuận theo dây mà lần tới trái đó là nha hoàn Thúy Hoàn, nhưng Thúy Hoàn đã thất tung, không thể điều tra tiếp được nữa, các mấu chốt khác cũng đứt đoạn, chỉ tạm thời gác lại một bên, tập trung vào án của Bành Tứ, chờ khi tìm được nha hoàn Thúy Hoàn rồi tính sau.

Dương Thu Trì mang theo Tống Vân Nhi cùng hộ vệ đội theo sự dẫn đường của Chiêm Chánh đến nhà của lão lang trung đã đề cập. Lão thầy thuốc này đã hơn tám chục tuổi, thân thể suy nhược, do đó không thể rời khỏi tiệm thuốc xem bệnh bốc thuốc, mà chỉ xem bệnh ở nhà, do đó lần trước Tống Vân Nhi không hề tìm hỏi tới lão. Lão lang trung cũng họ Bành, là người trong họ với Bành Tứ, ngụ tại một nhà vườn nhỏ bên rìa Ân Dương trấn. Lão Bành lang trung này nghe thông báo có tri châu đại lão gia tới, run lập cập đi ra mở cửa, rồi bước tới trước quỳ sụp xuống dập đầu lạy Dương Thu Trì. Hắn đỡ ông ta dậy: “Lão nhân gia, miễn lễ, chúng ta ngồi xuống rồi hãy nói chuyện.” Bành lão lang trung nghênh đón Dương Thu Trì vào phòng khách, mời hắn ngồi ghế trên, sai người hầu dâng trà thơm.

Dương Thu Trì trước hết hàn huyên mấy câu, rồi hỏi: “Lão nhân gia, bổn quan muốn hỏi ông chuyện này, ông có biết Bành Tứ – người chết ở bến thuyền hai ngày trước – không?”

Bành lão lang trung lộ vẻ khinh bỉ: “Biết chớ, đương nhiên biết, dù sao cũng là người trong họ của tôi mà. Nhưng người này có phẩm hạnh không hay, nên trước giờ tôi không hề lai vãng với hắn.”

Dương Thu Trì hỏi: “Một tháng trước đây tên Bành Tứ này có phải là đến tìm ông xem chữa dùm vết thương hay không?”

Bành lão lang trung gật đầu: “Đúng, chiều nay có lý chánh dẫn theo mấy vị sông sai đến đây hỏi tôi về chuyện này, tôi đã nói rồi, một tháng trước đây Bành Tứ đã tìm tới tôi để nhờ khám chữa thương dùm.”

“Lão nhân gia, ông có thể đem chuyện này kể kỹ lại hay không, đặc biệt là y bị thương chổ nào, ai làm y bị thương, được không?”

“Dạ được. Đêm hôm đó, đại khái đã canh ba rồi, Bành Tứ đến nhà tôi, người làm trong nhà mở cửa cho hắn, sau đó vào phòng gọi tôi. Lúc đó tôi đã đi ngủ rồi, khi nghe nói là hắn, định không thèm dậy, nhưng hắn đến tận phòng khẩn cầu tôi cứu, nói là đầu của hắn bị người nào đó ném đá ở trong ngõ vắng, đã bị thương chảy rất nhiều máu.

Dương Thu Trì kỳ quái hỏi: “Hắn vì sao không đến tìm các lang trung trong các tiệm thuốc mở ở trên đường mà xem? Ân Dương trấn của chúng ta có tới mấy tiệm thuốc kia mà?”

“Hừ, đó chính là sự báo ứng cho tính cách không hay thường ngày của hắn! Tôi cũng bảo hắn đi tìm các lang trung ở các tiệm thuốc khác để xem, nhưng hắn nói đều đã gõ cửa những chỗ khác rồi, nhưng người ta nhất quyết không chịu mở cửa. Không còn cách nào khác, hắn phải đến tìm tôi. Với tính cách xấu xa thường ngày của hắn, tôi biết chắc là người ta sẽ đối với hắn như vậy. Nễ tình là người cùng họ, hơn nữa dù sao cũng có câu ‘lương y như từ mẫu’, cho nên tôi mới thức dậy xem xét băng bó vết thương dùm hắn.”

Điều Dương Thu Trì muốn biết nhất chính là vị trí vết thương của Bành Tứ, nên vội hỏi: “Ông kiểm tra phát hiện hắn bị thương ở đâu?”

Bành lão lang trung chỉ vào phần đầu mé bên trái của mình: “Chính là ở đây, da đầu bị đánh rách luôn, chảy rất nhiều máu.” Chỗ này phù hợp với bộ vị xuất hiện khối u nang đọng huyết chết người ở bán cầu não trái của Bành Tứ mà hắn phát hiện sau khi giải phẩu đầu. Không còn nghi ngờ gì nữa! Dương Thu Trì thở phào nhẹ nhõm.

Bành lão lang trung nói tiếp: “Tôi rửa vết thương cho hắn, đắp thuốc lên, rồi bảo hắn nếu như cảm thấy choáng váng, muốn ói mửa thì phải lập tức quay lại tìm tôi. Nhưng sau khi vết thương được đắp thuốc cầm máu rồi, hắn bỏ đi luôn, tiền thuốc cũng không thèm trả, và sau đó cũng không hề quay lại.”

Dương Thu Trì gật gật đầu, lời dặn của lão lang trung này là hợp lý, không có vấn đề gì. Nếu ở thời hiện đại, đối với những chấn thương sọ não thế này, các bác sĩ đều yêu cầu bệnh nhân ở lại trong bệnh viện để tiến hành quan sát, và sau khi chụp CT (*) ở phần đầu xong xác định không có hiện tượng xuất huyết não mới cho xuất viện. Lão lang trung dĩ nhiên là không có những điều kiện hiện đại như vậy, nhưng ông ta dựa vào kinh nghiệm đã nhắc Bành Tứ là nếu như còn tiếp tục đau đầu, muốn ói mửa hay xuất hiện các triệu chứng xuất huyết nội não, thì cần phải tiếp tục chẩn trị. Nhưng Bành Tứ do bị xuất huyết mạn tính dưới vỏ não, triệu chứng không rõ ràng, do đó không coi trọng chấn thương này, kết quả là một tháng sau phải chấp nhận số phận một cách tức tưởi. Dương Thu Trì hỏi: “Lão nhân gia, Bành Tứ có nói là làm sao mà bị thương hay không?”

“Có nói, hắn nói tối hôm đó uống rượu say, trên đường về đi ngang một ngõ nhỏ, không biết là từ đâu bay ra một hòn đá đập mạnh vào đầu hắn, khiến hắn hôn mê té ngã xuống đất một lúc sau mới dậy được, phát hiện trên đầu đầy máu nên mới tìm đến lang trung.”

“Hắn có nói ai đã đánh hắn không?”

“Hắn nói không nhìn thấy, chỗ đó tối om, hắn uống rượu say rồi, không biết là ai đánh nữa – thật ra chuyện này không sớm thì muộn cũng xảy ra thôi, hắn là người có phẩm hạnh không đàng hoàng, đắc tội quá nhiều người, sớm muộn gì cũng gặp thứ báo ứng này.”

Chuyện báo ứng nhân quả tuần hoàn gì đó Dương Thu Trì không rảnh để quản, sau khi nghe Bành Tứ không biết bị ai đánh, lòng hắn lập tức lạnh đi hết phân nửa, sợ dấu vết lại đứt hết nữa. Dù sao thì hắn cũng không chịu thua, hỏi: “Lão nhân gia, ông nghĩ kỹ lại xem, hắn còn nói lời gì nữa không, hắn có suy đoán được rốt cuộc là ai đánh hắn không?”

Lão lang trung nhíu mày suy nghĩ một hồi, rồi lắc đầu bảo: “Không nhớ rõ nữa, tôi rất ghét hắn, do đó không muốn nói chuyện với hắn, băng bó vết thương xong là hắn đi ngay, ngay cả lời cảm ơn cũng không có.”

Như vậy là tiêu tùng rồi, chẳng lẽ cái manh mối khó khăn lắm mới phát hiện này cuối cùng cũng bị đứt luôn hay sao? Dương Thu Trì ngẫm nghĩ một lúc nữa, lại hỏi: “Vậy hắn có nói hắn bị người ta ném đá ở chỗ nào không?”

“Tôi nhớ là dường như hắn có nói bị đánh ở một con hẻm gần giếng nước ngọt.”

Thế này thì quá trừu tượng rồi, không có giá trị phá án thực tế gì. Dương Thu Trì cảm thấy chẳng còn cách nào, đành đứng dậy: “Đa tạ lão nhân gia giúp đỡ. Tôi đến chỗ đó xem thử, coi có manh mối gì hay không. Xin cáo từ.” Nói đến đây, hắn rời khỏi phòng, lão lang trung nhất mực theo sau tiễn đến cửa.

Tống Vân Nhi thấy Dương Thu Trì ưu sầu, manh mối của hai án đều đứt đoạn, hắn buồn là chuyện hiển nhiên, nên nàng an ủi: “Ca, không sao đâu, chúng ta từ từ tra.”

Dương Thu Trì cười khổ gật đầu, chuẩn bị nhờ lý chánh đưa mình tới con hẻm gần giếng nước ngọt gì đó quan sát thử, chợt sau lưng vọng lại tiếng gọi của Bành lão lang trung: “Đại lão gia, lão hủ nhớ tới một chuyện, không biết là có giúp ích gì được cho lão gia hay không.”

Chú thích: (*) Chụp CT: CT là từ viết tắt của thuật ngữ Computed Tomography. Tomography là phương pháp chụp ảnh cắt lớp được Godfrey Hounsfield, một nhà khoa học người Anh sáng tạo năm 1972 và nhận giải Nobel Y học năm 1979 (Computed Tomography mang ý nghĩa là chụp cắt lớp với sự hỗ trợ của máy tính). Đây là phương pháp tạo ảnh dựa vào tính chất hấp thụ tia X của vật chất, là một kỹ thuật X-quang đặc biệt cho phép nghiên cứu trên những hình ảnh cắt lớp các phần mô khác nhau của một cơ thể sống nhờ một dụng cụ đặc biệt gọi là scanner (thuật ngữ chính thức được Hounsfield dùng năm 1980).

Cùng với các phương pháp tạo ảnh khác như siêu âm, chụp cộng hưởng từ (MRI), chụp cắt lớp vi tính CT giúp cho ta “nhìn thấy” các cơ quan bên trong của con người mà không phải thực hiện phẫu thuật. CT được ứng dụng rất rộng rãi trong chẩn đoán lâm sàng cũng như trong sinh thiết. CT được dùng để chẩn đoán các phần cứng của cơ thể bị tổn thương như: sọ não, cột sống, xương … Trong tất cả các phương pháp chẩn đoán hình ảnh hiện nay thì CT cho hình ảnh về các phần cứng của cơ thể rõ nhất. CT còn được dùng để chẩn đoán ung thư, giúp phát hiện sớm khối u. Chụp CT có tiêm cản quang có thể giúp cho bác sĩ đánh giá sự phát triển và sự di căn của khối u.

Các bệnh về tim mạch như tắc nghẽn mạch máu, các dị tật của tim…có thể được phát hiện bởi CT. CT được dùng trong nha khoa, nhi khoa, nhãn khoa hay để thực hiện nội soi ảo dùng kỹ thuật tạo ảnh 3D với sự hỗ trợ của máy tính. Ngoài ra, CT còn dùng để trợ giúp sinh thiết như sinh thiết tuyến tiền liệt, sinh thiết ung thư vú, sinh thiết cổ tử cung… Một ưu điểm lớn nhất của CT là cho phép khảo sát các phần xương có cấu trúc tinh tế. Phương pháp chụp cộng hưởng từ – MRI

(maic resonance imaging) không tỏ ra hữu hiệu trong trường hợp này. Hình ảnh CT cho chất lượng rất tốt. Vì vậy, hiện nay người ta kết hợp CT với phương pháp PET (dùng để tạo ảnh chức năng) để tạo ra máy quét CT/PET vừa cho hình ảnh giải phẫu vừa khảo sát được chức năng của các cơ quan.