Chương 10: June V

Another

Đăng vào: 12 tháng trước

.

1

Ngày tiếp theo mở đầu một cuộc sống học đường khác thường ở Bắc Yomi.

Trước hết, rõ ràng là rất khó chịu. Vì sao họ nỡ cư xử thế này, tôi biết. Nhưng vẫn cảm thấy quá đỗi quái đản và muốn nổi loạn. Lý trí tôi hiểu được tình hình, nhưng cảm xúc tôi không tài nào chấp nhận nổi.

Mọi người trong lớp, kể cả các giáo viên, đối xử với Mei và tôi như thể chúng tôi chẳng hề tồn tại. Đổi lại, Mei và tôi cũng xử sự hệt như chẳng ai khác ngoài hai đứa có mặt ở đó. Thật là một tình huống gượng ép, thiếu tự nhiên.

Nhưng dẫu có méo mó gượng gạo đến đâu chăng nữa, dần dà người ta cũng thích ứng với tình trạng mà họ phải sống. Vì các quy tắc đều rõ ràng như pha lê, tôi thậm chí cho rằng nơi đây còn khá khẩm hơn những trải nghiệm tồi tệ ở trường cũ. Ngày lại ngày trôi qua, tôi bắt đầu tự huyễn là cứ sống thế này cũng không đến nỗi nào, và ý nghĩ đó dần thắng thế.

Không đến nỗi nào… Ý tôi là nếu so với trạng thái bất ổn đầy rẫy những “Cái gì?” và “Tại sao?” đợt trước, thì hiện nay tốt hơn. Nhìn từ khía cạnh khác… phải, có lẽ thế.

Ở lớp, sự cô độc của tôi và Misaki, lại cũng tạo nên tự do cho tôi và Misaki.

Ví dụ như… Đôi lúc tôi vẫn hình dung ra vài cảnh tượng rất đỗi trẻ con.

Cho dù Mei và tôi xử sự thế nào hay nói chuyện gì trong phòng học lớp 9-3, cũng chẳng ai phản ứng. Tất cả bọn họ đều vờ như chẳng nhìn thấy gì, chẳng nghe thấy gì. Kể cả khi Mei nhuộm màu tóc chói lọi quái đản nào đó.

Kể cả khi tôi đột ngột hát vống lên giữa lớp hay trồng cây chuối trên mặt bàn. Kể cả khi chúng tôi rổn rảng bàn bạc chuyện cướp ngân hàng… Mọi người càng cố tiếp tục giả vờ như chẳng nhìn thấy, chẳng nghe thấy…

Nếu bây giờ chúng tôi ôm chặt lấy nhau như cặp tình nhân ngay giữa phòng học…

Khoan đã, Koichi.

Trong hoàn cảnh hiện tại, tốt hơn cả là hãm cái ý nghĩ mơ mộng tàm phào kia lại đi. Hiểu chưa nhóc?

Dẫu sao thì…

Xét từ một góc độ nhất định, tình trạng này mang lại bầu không khí vô cùng yên ả, hiền hòa mà tôi sẽ chẳng thể nào có được ở một ngôi trường bình thường. Tôi đã diễn dịch tình trạng của mình theo hướng đó.

Tuy nhiên, đằng sau vẻ yên ả hiền hòa vẫn còn rơi rớt sự căng thẳng và đề phòng, lo lắng và sợ hãi, sinh ra từ nỗi băn khoăn: liệu “tai ương” năm nay có tiếp diễn?

Chúng tôi sống như thế được hơn một tuần. Tháng Sáu đã trôi qua quá nửa mà không xảy ra sự cố nào.

Trong thời gian ấy, tần suất nghỉ học và trốn tiết của Mei giảm hẳn.

Trái lại, tôi vắng mặt nhiều hơn. Một sự thật không thể chối cãi.

Hành động đó đáng ra phải gây lo ngại cho người làm giáo dục, nhưng thầy Kubodera chủ nhiệm của tôi chẳng bao giờ quở trách tôi cả. Thầy hoàn toàn có thể thông báo cho ông bà ngoại – những người giám hộ tôi ở thị trấn Yomiyama này, nhưng dĩ nhiên thầy không đời nào làm vậy. Mei kể rằng ngay cả khi cần họp ba bên (nhà trường – phụ huynh – học sinh) về việc chọn trường phổ thông, thì họ cũng sẽ sắp xếp để một giáo viên khác đến bàn bạc thay cho phụ huynh của học sinh “không tồn tại”.

Hết lần này tới lần khác, cô Mikami phó chủ nhiệm tỏ ra khổ não thực sự. Nếu bảo rằng mình không hề bận tâm thì là nói dối, nhưng tôi cũng chẳng có lý do nào để trút phiền muộn hay than vãn lên cô. Thực sự tôi không nghĩ mình làm được điều đó.

Tôi vẫn đang theo kịp cả lớp. Các giáo viên chắc sẽ du di trong phiếu điểm danh của tôi, bởi thế chỉ cần tôi vượt qua các kỳ thi thì mọi chuyện đều ổn thỏa. Nếu không có sự cố nào bất ngờ, tôi sẽ lên phổ thông một cách dễ dàng nhờ các mối quan hệ của bố, vậy nên…

Những trận nổi loạn nho nhỏ của tôi cứ tiếp diễn mãi. Có gì sai đâu? Tôi thản nhiên nghĩ vậy.

2

Mei và tôi, hai kẻ “không tồn tại” thường trèo lên sân thượng Khu C vào những ngày tạnh ráo, cùng ăn trưa ở đó. Như thường lệ, tôi mang theo hộp cơm do bà ngoại chuẩn bị. Mei thì gặm bánh mì và uống hồng trà đóng lon.

“Kirika không làm cơm trưa cho cậu à?”

“Thỉnh thoảng, khi có hứng.” Mei trả lời rất thờ ơ. Chẳng hề ngậm ngùi hay bất mãn. “Áng chừng mỗi tháng một đôi lần. Nhưng nói thật là, khó nuốt lắm.”

“Cậu có tự nấu lấy không?”

“Chẳng bao giờ.” Một lần nữa, cô lại thờ ơ. “Nhiều nhất là tự hâm nóng mấy món ăn sẵn thôi. Ai mà chẳng thế, phải không?”

“Tớ thì nấu ăn rất giỏi.”

“Cậu ấy hả?”

“Hồi ở trường cũ, tớ tham gia Câu lạc bộ ẩm thực đấy.”

“Cậu thật bất thường.”

Tôi không mong được nghe Mei nói câu này. “Một ngày nào đó cậu nấu món gì cho tôi nhé?”

“Hở? Được. Một ngày nào đó…” Tôi đáp, lòng hơi xốn xang. Ngày nào đó là ngày nào? Tôi vừa bâng khuâng nghĩ vừa hỏi, “Nhắc tới chuyện này mới nhớ, cậu có tham gia Câu lạc bộ Mỹ thuật, đúng không?”

“Ừ, hồi lớp Bảy. Tôi quen Mochizuki là ở đấy.”

“Giờ thì sao?”

“Ý cậu là sao?”

“Giờ cậu còn sinh hoạt ở câu lạc bộ không?”

“Đến năm lớp Tám thì câu lạc bộ giải tán. Nói cho đúng là… ngừng hoạt động.”

“Nhưng tháng Tư năm nay đã tái khởi động rồi mà?”

“Phải, tôi có tham dự vài buổi hồi tháng Tư. Nhưng sang tháng Năm thì thôi.”

Tức là đã ngừng từ khi trở thành người “không tồn tại”.

“Năm cậu học lớp Bảy, Câu lạc bộ Mỹ thuật cũng là do cô Mikami phụ trách à?”

Một khoảng lặng kéo dài, rồi Mei đưa mắt quan sát tôi trong khi đáp, “Cũng là cô Mikami. Nhưng một giáo viên Mỹ thuật khác mới là phụ trách chính. Khi tôi lên lớp Tám thì giáo viên đó chuyển công tác, cho nên…”

Cho nên hoạt động gián đoạn một năm, đến khi cô Mikami quyết định trở thành người phụ trách chính, phải không? Tôi gật gù.

“Nhắc tới chuyện này mới nhớ. Cậu từng vẽ tranh trên sân thượng này, nhớ không? Hồi đầu gặp nhau ở đây, cậu có mang theo một quyển ký họa.” “Cũng có thể có chuyện đó.”

“Về sau, tớ còn thấy cậu cầm theo nó đến vẽ ở thư viện phụ. Bức tranh đã hoàn thiện chưa?”

“Cũng tàm tạm.”

Đó là tranh vẽ một thiếu nữ xinh đẹp có các khớp nối hình cầu. Bấy giờ Mei nói: Sau cùng tôi sẽ cho cô ấy cặp cánh thật to.

“Còn cánh? Cậu đã vẽ vào chưa?”

“Có thể nói là rồi.” Mei cụp mắt xuống, vẻ buồn bã.

“Một ngày nào đó tôi sẽ cho cậu xem.”

“Ừm.”

Một ngày nào đó, phải không? Bao lâu nữa thì tới ngày ấy? Trong cuộc chuyện trò vơ vẩn này, mặc dù không được hỏi, tôi đã kể lể khá nhiều về bản thân mình. Bố đang ở Ấn Độ. Mẹ đã qua đời. Cuộc sống trước và sau khi chuyển tới Yomiyama. Ông bà ngoại. Dì Reiko. Bệnh phổi và nằm viện. Chị Mizuno…

Còn Mei, nếu tôi không hỏi cặn kẽ là cô chẳng buồn kể về mình. Thật ra, dù tôi đặt câu hỏi, nhiều lúc cô cũng không chịu trả lời hoặc đánh trống lảng.

“Sở thích của cậu là gì? Vẽ tranh à?”

Thậm chí tôi phải hỏi cả những câu khuôn sáo đến thế.

“Nói về tranh, tôi thích xem hơn là vẽ.”

“Ồ, thật sao?”

“Dù vậy, tôi cũng chỉ xem tranh trên sách thôi. Sách loại ấy nhà tôi có hàng tá.”

“Cậu không đến triển lãm tranh bao giờ à?”

“Cơ hội ấy không nhiều đâu, khi sống ở thị trấn heo hút thế này.”

Mei kể với tôi rằng cô thích hội họa phương Tây trước khi trường phái Ấn tượng ra đời. Và cô thực sự không hứng thú với những bức tranh của Kirika.

“Còn đám búp bê?” Tôi được đà hỏi luôn. “Cậu nghĩ sao về đám búp bê do Kirika chế tác? Cũng không thích à?”

“Cũng khó nói.” Tương ứng với câu trả lời, khuôn mặt cô hiện rõ vẻ khó xử. “Tôi không ghét chúng. Có con còn thích nữa kia, nhưng mà…”

Tôi quyết định không hỏi sâu hơn nữa. Với giọng điệu nhẹ nhõm nhất có thể, tôi nói, “Một ngày nào đó cậu hãy tới Tokyo chơi nhé. Chúng mình sẽ đi tham quan các triển lãm tranh. Tớ làm hướng dẫn viên cho.”

“Được rồi. Một ngày nào đó.”

Một ngày nào đó…

Kể từ thời khắc này, bao lâu nữa thì sẽ tới ngày đó. Ý nghĩ ấy lại luẩn quẩn trong đầu tôi.

3

“Cậu có muốn ngó qua Câu lạc bộ Mỹ thuật không?”

Thứ Năm, 18 tháng Sáu, Mei chợt hỏi vào giờ nghỉ trưa.

Trời đã mưa tầm tã suốt cả ngày, không thể nào lên ăn trên sân thượng được. Nhưng những kẻ “không tồn tại” như chúng tôi mà lại thưởng thức bữa trưa trong lớp như những người khác thì chẳng còn vui thú gì. Bởi vậy sau tiết thứ tư chúng tôi lập tức rời chỗ ngồi, cùng ra khỏi lớp cứ như đã có hẹn trước. Chính lúc ấy, Mei đã hỏi tôi như thế.

Tôi chẳng nghĩ ra được nơi nào thú vị hơn, bèn nhanh chóng đồng ý. “Được, được.”

Câu lạc bộ Mỹ thuật nằm ở tầng trệt Khu o, cuối dãy hành lang phía Tây. Đây vốn là một phòng học bình thường, nay được ngăn đôi, một nửa dành cho Câu lạc bộ Mỹ thuật, nửa kia là phòng sinh hoạt cho bộ môn văn hóa nào đó, ở cửa vào treo biển: Câu lạc bộ Nghiên cứu Sử Địa phương”.

“Ồ!” Có ai đó thốt lên khi chúng tôi bước vào.

Đã có người bên trong phòng.

Hai cô gái tôi chưa từng gặp mặt. Màu bảng tên cho thấy một cô học lớp Tám, cô còn lại học lớp Bảy. Cô bé lớp Tám có khuôn mặt dài, trầm tĩnh, tóc cột kiểu đuôi ngựa, trong khi cô lớp Bảy mặt bầu bĩnh dễ thương, đeo kính gọng đỏ.

“Chị Misaki,” cô lớp Tám tóc buộc đuôi ngựa thốt lên, mắt chớp chớp vẻ ngạc nhiên. “Vì sao…?”

“Bỗng dưng muốn ghé qua xem,” Mei đáp với giọng khô khốc.

“Không phải chị rời câu lạc bộ rồi à?”

“Chỉ nghỉ một thời gian thôi.”

“Ồ, thật ạ?” Lần này là cô lớp Bảy đeo kính.

Xem ra các cô gái này không biết hoàn cành đặc biệt của lớp 9-3 (dĩ nhiên thôi, bởi có quy định là “không được kể cho người nào ngoài lớp”). Bọn họ trò chuyện với Mei một cách hoàn toàn bình thường, đây là chứng cứ hùng hồn nhất.

“Ừm, ai kia ạ?” Cô bé lớp Tám hỏi trong khi liếc nhìn tôi.

Mei đáp ngay, “Học cùng lớp chị, Sakakibara. Cũng là bạn của Mochizuki.”

“Ồ, thật ạ?”

Lại cô bé lớp Bảy. Vẫn âm điệu lúc nãy, y như đoạn băng mặc định cứ phát đi phát lại. Vẻ mặt không thay đổi, nụ cười hình như hơi thẹn thùng… Hờ, tôi không ứng phó được với kiểu người thế này.

“Cậu ấy nói muốn tham quan Câu lạc bộ Mỹ thuật nên chị dẫn tới đây,” Mei giải thích vừa đủ.

“Ồ, thật ạ?”

“Anh định tham gia câu lạc bộ à?”

Cô bé lớp Tám hỏi, khiến tôi phát hoảng, “Không đâu không định… Ý anh là, ý anh…”

Trong khi tôi vật lộn tìm câu chữ, Mei đã lách người đi qua hai cô gái. Tôi liền bỏ mặc họ, vội vàng theo chân cô.

Căn phòng sắp đặt ngăn nắp hơn tôi tưởng.

Chính giữa phòng là hai chiếc bàn lớn như bàn trong phòng học vẽ. Một mảng tường được biến tấu thành tủ giữ đồ cho các thành viên câu lạc bộ, mặt tường đối diện có những chiếc giá sắt to đựng các dụng cụ vẽ cùng mấy món đồ khác được sắp xếp ngay ngắn.

“Mochizuki vẫn chẳng thay đổi gì cả,” Mei nhận xét trong khi tiến lại một chiếc giá vẽ đặt trong phòng. Nhìn theo, tôi thấy bản sao bức Tiếng hét của Munch – không, không hẳn là một bản sao. Các chi tiết nền có hơi khác bản gốc, và anh chàng đưa tay lên bịt tai kia có vẻ giống Mochizuki…

Đúng lúc đó, chính cậu ta bước vào.

“Ồ, anh à!”

“Anh Mochizuki!”

Nghe giọng hai cô bé, tôi xoay người lại, thấy Mochizuki ở ngay cửa. Khoảnh khắc nhìn thấy chúng tôi, gương mặt cậu biến đổi, như thể gặp phải ma hay thứ quái quỷ gì.

“Ừm, hai em đi cùng anh một lúc được không? Ngay bây giờ luôn?” Cậu ta nói với hai cô bé, rời mắt khỏi chúng tôi. “Anh cần các em giúp ngay.”

“Ồ, thật ạ?”

“Chẳng mấy khi chị Misaki đến đây nên…”

“Đi với anh đã.”

Mochizuki rời khỏi phòng, gần như lôi tuột hai cô bé theo cùng.

Trở lại nhìn bức tranh nhái Tiếng hét trên giá, Mei phì cười. Cảm giác lây lan, tôi cũng bật cười, nhưng cố kìm tiếng.

Thật khó tiếp tục kiểu xử sự phớt lờ như thể chúng tôi “không tồn tại” trước mặt người ngoài, bởi người ta không biết được chuyện gì đang xảy ra và tất nhiên không thể giải thích với họ được. Chính vì thế Mochizuki phải tìm cách rời đi đã, bằng mọi giá. Nhưng cậu ta bịa tạc được việc gì để hai cô bé ấy “giúp ngay” nhỉ? Càng nghĩ tôi càng sinh lòng thông cảm.

Mei xoay người khỏi bức tranh nhái Tiếng hét, tiến về phía cuối căn phòng, và rút một thứ gì đó ra từ đằng sau tủ đựng đồ.

Nó được bọc kín trong vải trắng, nhưng hình dạng cho thấy đó cũng là một khung tranh. Mei nhẹ nhàng kéo tấm vải. Mặt sau của một khung tranh sơn dầu khổ 10(1). Mei khẽ thở dài rồi lật mặt trước tranh ra.

(1) Khoảng 55x46cm.

Một bức sơn dầu. Không cần hỏi cũng biết bức tranh này là của Mei… Thể hiện chân dung một phụ nữ mặc đồ đen. Những đường nét vừa thoáng nhìn đã cho thấy nhân vật này là mẹ cô. Tuy nhiên…

Thật lạ, khuôn mặt đó bị xẻ làm hai. Từ đỉnh đầu xuống trán, lông mày, mũi và miệng… toàn bộ gương mặt bà bị tách theo hình chữ V. Cấu trúc của bức vẽ là như vậy.

Ở nửa bên phải của gương mặt bị xé rách là nụ cười mơ hồ. Còn bên trái là vẻ buồn đau. Trong tranh không hề có huyết dịch hay cấu trúc dưới da, thế nên đây chẳng phải dạng tranh giải phẫu, cũng không máu me đầm đìa, nhưng bảo dị hợm thì đúng là dị hợm, mà bảo rùng mình thì cũng đúng là rùng mình.

“Chưa ném đi, kể cũng tử tế chán!” Mei lẩm bẩm.

“Nếu có ai đó như Akazawa ở Câu lạc bộ Mỹ thuật chứ không phải Mochizuki thì…”

Chắc chắn cô ta đã hủy nó đi với lý do thỏa đáng là không thể giữ tranh của một kẻ “không tồn tại”. Có phải Mei định nói thế?

“Cậu có định mang về nhà không?” Tôi hỏi.

“Không.” Mei khẽ lắc đầu, xoay lưng tranh ra, phủ lại tấm vải lên trên và trả nó về phía sau tủ đựng đồ.

4

Rời khỏi Câu lạc bộ Mỹ thuật, trở ra hành lang, chúng tôi chạm mặt cô Mikami.

Dĩ nhiên, chúng tôi phải phớt lờ cô. Và cô cũng phải lờ chúng tôi đi. Tôi hiểu điều đó, nhưng bước chân dùng dằng bất đồ ngưng lại trong giây lát.

Có lẽ chính vì thế cô Misaki cũng dừng chân, rồi khó xử đảo mắt khỏi chúng tôi. Môi cô run rẩy như muốn nói điều gì… Mà có thể chỉ do tôi tưởng tượng cũng nên. Dù sao thì mọi chuyện cũng chỉ diễn ra trong tích tắc, giữa vùng ánh sáng nhập nhòa của hành lang.

Vào các ngày thứ Năm, tiết thứ năm (tiết học tiếp theo của chúng tôi) chính là giờ Mỹ thuật của cô Mikami, nhưng chúng tôi không định về lại lớp. Bởi tình trạng hiện tại cho thấy, cô và phần còn lại của lớp rõ ràng thấy thoải mái hơn khi hai kẻ “không tồn tại” vắng mặt. Tương tự thế với tiết thứ sáu, sinh hoạt cuối giờ.

Sau đây bọn mình làm gì?” Tôi thấp giọng hỏi Mei trong khi chúng tôi sánh bước dọc hành lang.

“Tới thư viện đi,” cô nói. “Tất nhiên là thư viện phụ. Có lẽ bọn mình ăn trưa ở đó luôn.”

5

Vậy là khi chuông báo tiết năm reo lên, chúng tôi đã ở thư viện phụ. Khi chúng tôi tới, không có ai khác ở đó cũng không thấy thầy thủ thư Chibiki đâu.

Mei ngồi xuống một chiếc trong số ghế xếp quanh bàn lớn, bắt đầu đọc cuốn sách cô mang theo. Tôi liếc qua tựa sách khi cô lấy nó ra khỏi cặp: Đám đông cô đơn(2). Sách gì thế không biết? Tôi tự hỏi. Chắc ít nhất cũng xa lạ với thể loại mà tôi và chị Mizuno từng nghiên cứu.

(2) Một cuốn sách về tâm lý xã hội của David Riesman.

“Tôi mượn ở thư viện chính,” Mei nói, mắt vẫn dán vào trang giấy. “Nhan đề phần nào có ý nghĩa với tôi.”

“Đám đông cô đơn?”

“Sách của một người tên là Riesman. David Riesman. Cậu đã bao giờ nghe tên ông ấy chưa?”

“Chưa.”

“Có khi có trong thư viện của bố cậu đấy.”

“À. Ra là loại sách đấy hử?”

“Hay không?”

“Hừm… Biết nói thế nào nhỉ?”

Tôi một mình tiến lại chỗ giá sách mà thầy Chibiki chỉ cho vào lần trước tới đây, tìm đến vị trí còn trong trí nhớ. Cuốn kỷ yếu năm 1972 vẫn ở đó. Tôi nhấc nó ra khỏi giá và mang trở lại bàn.

Tôi chọn chỗ cách Mei hai ghế rồi ngồi xuống, mở kỷ yếu ra. Không phải vì muốn ngắm lại mẹ mình thời trung học cơ sở, mà vì nhớ có điều cần phải kiểm tra.

Tôi tìm tới trang của lớp 9-3, chăm chú nhìn tấm ảnh chụp chung bên trái.

Ở hàng thứ hai, người thứ năm tính từ phải sang chính là mẹ tôi hồi lớp Chín, với nụ cười hơi căng thẳng. Chếch phía trước mẹ – cũng ở bên phải, đứng hơi tách khỏi hàng – là một người đàn ông. Thân hình tầm thước mặc bludông màu lam. Một tay chống hông, nụ cười rạng rỡ hơn bất cứ học sinh nào, chính là… Phải, đúng như tôi nghĩ.

“Người nào là mẹ cậu?”

Giọng Mei vang lên sau lưng, làm tôi giật bắn mình, suýt nữa thì hét lên. Thật là… Chúng tôi đang ngồi cách nhau đến mấy mét cơ mà. Sao tôi không để ý cô đã đứng dậy chứ.

Trấn tĩnh lại, tôi chỉ vào bức ảnh, “… Đây.”

“Hừm…”

Mei ghé qua vai tôi nhìn cuốn kỷ yếu, chăm chú ngắm gương mặt mẹ tôi. “Ritsuko, phải không?” Cô lẩm bẩm. “Hừm… Thế đấy!”

Cuối cùng cô gật gù như hiểu ra điều gì. Rồi kéo chiếc ghế bên phải tôi ngồi xuống, hỏi, “Sao mẹ cậu mất?”

“Ừm…” Tôi vô thức thở dài. “Năm ấy mẹ sinh tớ ở đây, vào mùa hè, tháng Bảy. Hậu sản, rồi bị cảm, không hồi phục được…”

“Ồ.”

Đã mười lăm năm rồi… Chính xác hơn là mười bốn năm mười một tháng, nếu tính chi li.

“Mà cậu nhìn xem, có quen không?”

Lần này đến lượt tôi hỏi. Tôi quan sát gương mặt trông nghiêng của Mei, cảm giác miếng băng che mắt trái của cô hôm nay trông bẩn hơn mọi ngày.

“Giáo viên chủ nhiệm lớp 9-3 năm đó!”

Người đàn ông mặc bludông màu lam đứng ở mạn phải của tấm ảnh tập thể. “Cảm giác khác hẳn bây giờ nhỉ?” Mei nói. “Đây là lần đầu tiên tôi trông thấy ảnh từ thời đó.”

Ồ, phải rồi. Thầy chủ nhiệm lớp con bé rất là điển trai. Cậu ấy dạy môn Xã hội và còn làm cố vấn câu lạc bộ nhạc kịch gì đấy. Đúng là một ông giáo nhiệt huyết. Các học sinh đều quý mến cậu ta.

Đúng, đó là điều bà nói khi lục tìm những ký ức xa xăm. Bà kể về người đàn ông trong tấm ảnh này.

Cách đây hai mươi sáu năm, thầy ấy mới quãng hai mươi mấy tuổi, giờ thì hẳn đã ngoại ngũ tuần rồi.

Độ tuổi rất khớp. Lần trước xem cuốn kỷ yếu này và chú ý đến thầy, tôi cũng có cảm giác giống Mei, rằng thầy đã thay đổi rất nhiều trong hai mươi sáu qua.

Để chắc chắn, tôi xem tên người giáo viên in bên dưới tấm ảnh. Và tôi đã đúng. Trên đó in dòng chữ: Thầy Chibiki Tatsuji.

“Tớ hỏi điều này một chút nhé?” Tôi cất tiếng, ngước mắt khỏi trang kỷ yếu, chuyển ánh nhìn lên Mei. “Tuần trước ở nhà cậu, trong khi giải thích về mọi chuyện đang diễn ra, cậu nhắc lại vài lần rằng có người nói thế này thế kia. Người đó có phải là…?”

“Đúng rồi đấy.” Mei gật đầu, nụ cười thích thú nở trên gương mặt cô. “Tôi muốn nói tới thầy Chibiki.”

6

Chẳng mấy chốc, thầy Chibiki “chủ nhân” thư viện phụ xuất hiện. Ngay sau khi tôi xếp quyển kỷ yếu năm 1972 trở lại giá.

“Chà, hôm nay là hai người?” Thầy lên tiếng khi trông thấy chúng tôi, rồi tiến thẳng về quầy thủ thư bên trong. Vẫn bộ đồ đen từ đầu đến chân và đeo kính gọng đen như thường lệ, mái tóc muối tiêu bù xù tô điểm cho khuôn mặt xương xương nhợt nhạt. Thật khác xa hình ảnh “ông giáo nhiệt huyết” trong ký ức của bà tôi.

“Tăng lên thành hai rồi, người ‘không tồn tại’ ấy ạ.” Mei vừa đáp vừa nhỏm dậy khỏi ghế.

Chống cả hai khuỷu tay lên mặt quầy, thầy Chibiki nói. “Có vẻ như thế. Tôi cũng nghe phong thanh.”

“Theo thầy cách này có hiệu quả không?”

“À, ừm.” Mặt thầy bất giác đanh lại. “Nói thật lòng là tôi không rõ. Chưa ai thử làm cách này bao giờ cả.”

Rồi thầy đánh mắt sang phía tôi, “Chắc em đã hiểu đầu đuôi câu chuyện rồi, phải không Sakakibara?”

“Dạ vâng, nhưng…”

“Nhưng? Em không tin sao?”

“Không phải… À, nhưng đúng là thế, phần nào trong em vẫn cảm thấy không thể tin hết được.”

“Tôi hiểu.” Khuỷu tay vẫn chống trên bàn, người thủ thư vận toàn đồ đen vò vò đầu. “Cũng chẳng trách em được. Nếu đặt mình vào vị trí của em, rồi đột ngột nghe một câu chuyện như thế… Hẳn là vậy rồi.”

Thầy ngừng vò tóc, chân mày cau lại. “Ấy vậy mà,” thầy tiếp tục nói, “chuyện này là thật. Đây là hiện tượng đã thực sự diễn ra ở trường chúng ta, ở thị trấn Yomiyama này.”

Hiện tượng sao? Tôi bỗng dưng nhớ lại những lời Mei nói tuần trước nhờ nghe “có người” kể cho.

Đây không phải điều một người làm được. Nó là một “hiện tượng”. Ít nhất thì có người đã giải thích với tôi như thế.

Khi nhận ra người đó chính là người đang đứng trước mặt tôi đây, mọi chi tiết đều trở nên gắn kết. Hai mươi sáu năm trước người đàn ông này từng là giáo viên chủ nhiệm của lớp 9-3 và nay, sau hai mươi sáu năm, ông chuyển sang làm thủ thư, để vẫn ở lại trường. Tôi cố hình dung mọi chuyện diễn biến như thế nào…

“Ừm…”

Tôi đứng dậy, tiến đến gần quầy thủ thư, dừng lại bên cạnh Mei.

“Vậy là thầy từng là giáo viên môn Xã hội và cố vấn cho Câu lạc bộ Kịch nghệ. Hai mươi sáu năm trước thầy chủ nhiệm lớp 9-3, hẳn thầy biết chuyện mẹ em…”

“Phải. Tôi đoán là em nhận ra điều đó ngay hôm đầu xem cuốn kỷ yếu.”

“Dạ, phải… Nhưng làm sao mà thầy chủ nhiệm lại chuyển công tác sang đây?”

“Câu hỏi này, hơi khó trả lời.”

“Em xin lỗi ạ.”

“Không cần phải xin lỗi đâu. Misaki chưa kể cho em nghe sao?”

Tôi liếc sang Mei, “Chưa ạ.”

“Hừm…” Thầy Chibiki ngước nhìn chiếc đồng hồ treo tường. Hơn ba mươi phút đã trôi qua kể từ lúc bắt đầu tiết năm. “Giờ này các em có tiết Mỹ thuật mà nhỉ? Tôi đoán cả hai định chuồn nốt tiết sinh hoạt lớp tiếp theo phải không?”

Mei và tôi đưa mắt nhìn nhau rồi cùng gật đầu.

“Chúng em nghĩ mọi người sẽ thoải mái hơn trước sự vắng mặt này.”

“Hẳn rồi. Phán đoán đúng đấy.”

“Dạ thưa thầy chủ nhiệm?” Tôi quyết định hỏi về thắc mắc vừa nảy ra trong đầu. “Nếu thầy không phớt lờ bọn em thì có sao không ạ?”

“Em có thể thôi gọi tôi là ‘thầy chủ nhiệm’ được không? Gọi ‘thầy Chibiki’ là được rồi.”

“Dạ… được ạ.”

“Bởi vì tôi không có mối ràng buộc với lớp của các em, hiểu chứ? Những người không có mối liên hệ trực tiếp với lớp 9-3 thì đều an toàn. Thế nên cho dù tôi có thường xuyên tiếp xúc với các em thì cũng chẳng sao cả.”

Ra là vậy. Dĩ nhiên cũng nhờ thế thì Mei mới có thể tới đây tìm hiểu thông tin từ thầy.

“Ừm, để trả lời câu hỏi ban nãy của em,” thầy Chibiki nói tiếp, thả mình xuống chiếc ghế sau quầy thủ thư “Thôi thì nhân cơ hội này kể cho các em nghe một câu chuyện nhỉ? Cho tới giờ Misaki đây cũng chỉ mới biết vài ba chi tiết mà thôi.”

7

“Thú thực là tôi không thích đề cập nhiều về câu chuyện hai mươi sáu năm trước ấy, dù rằng trong những người trực tiếp trải nghiệm nó, tôi là người duy nhất còn ở lại đây.”

Lớp 9-3, hai mươi sáu năm trước. Misaki mà ai cũng yêu mến chết đi.

Và rồi…

“Không ai có ý định xấu cả,” thầy Chibiki kể, giọng nghèn nghẹt qua kẽ răng. “Bấy giờ tôi còn rất trẻ, ôm ấp nhiều hoài bão của một nhà giáo dục… Việc gì nghĩ là đúng thì tôi sẽ làm. Các học sinh cũng vậy. Bây giờ ngẫm lại mới thấy quyết định ấy thật là phù phiếm. Kết quả là hành động của chúng tôi biến thành ngòi nổ, nói cách khác thì chính chúng tôi đã mở toang ‘cánh cửa tử thần’ ở ngôi trường này, trách nhiệm đó thuộc về tôi. Cả ‘tai ương’ bắt đầu từ năm tiếp theo, không nghĩ ra cách nào để ngăn chặn chúng, trách nhiệm cũng là của tôi. Chính vì thế mà tôi nán lại trường này, nhưng làm thủ thư chứ không làm giáo viên nữa. Thật ra suy cho cùng, lựa chọn này có một nửa là trốn chạy.”

“Trốn chạy?” Tôi bất giác ngắt lời thầy. “Sao như thể lại là trốn chạy ạ?”

“Sở dĩ tôi thôi làm giáo viên, một phần là do lương tâm cắn rứt. Tôi không đủ tư cách làm giáo viên. Một phần khác chính là nỗi khiếp đảm, rằng chẳng may lại làm chủ nhiệm lớp 9-3, có thể tôi sẽ thành người tiếp theo bị kéo đến gần ‘cái chết’. Thế nên tôi trốn chạy.”

“Giáo viên cũng chết ạ”

“Ừ, nếu là chủ nhiệm hoặc phó chủ nhiệm. Bởi vì họ là thành viên của lớp 9-3. Còn các giáo viên chỉ đơn thuần dạy bộ môn thì không thuộc phạm vi ấy.

Ồ, vậy nên… Tôi đã ngờ ngợ hiểu ra.

Vì sao Mochizuki Yuya cứ băn khoăn khi gần đây cô Mikami thường xuyên vắng mặt. Hóa ra không đơn thuần là ái ngại cho sức khỏe của người cậu ta ngưỡng mộ, mà thực sự lo ngại rằng tai họa tiếp theo sẽ xuống đầu cô bởi vì cô là phó chủ nhiệm ở lớp chúng tôi.

“Bởi thế nên tôi trốn chạy,” Chibiki lặp lại. “Nhưng tôi không muốn xa hẳn trường này. Vừa may thư viện cần tuyển người, thế nên tôi quyết định chuyển tới đây. Để luôn có mặt, quan sát diễn biến của sự việc… À, bỗng dưng tôi đi lan man quá.”

Thầy Chibiki nhếch môi, vẻ tự trào, cái đầu chầm chậm lắc lư. Tôi hỏi, “Học sinh Misaki hai mươi sáu năm trước là nam hay nữ ạ?”

“Là nam.” Câu trả lời ngắn gọn. “Misaki là tên, không phải họ, Chữ Hán là “Giáp” với nghĩa là ‘mũi đất’ ấy.”

“Họ của người đó là gì ạ?”

“Yomiyama.”

“Dạ?”

“Họ là Yomiyama. Cùng tên với thị trấn này. Tên đầy đủ của em ấy là Yomiyama Misaki.”

Họ của người đó là Yomiyama? Ừm, chắc cũng giống như ông Adachi sống ở phường Adachi, hoặc cô Musashino đến từ thành phố Musashino.

Tôi nhìn sang Mei. Mei cũng đang nhìn tôi, đầu lắc khe khẽ. Có lẽ cô muốn nói: Tôi cũng vừa mới biết thôi.

“Yomiyama Misaki bị tai nạn máy bay hay sao ạ?” Tôi xác nhận lại tình tiết câu chuyện.

“Hỏa hoạn.” Vẫn là câu trả lời ngắn gọn. “Những chuyện như thế này thường xuyên bị cải biên, thêm mắm dặm muối khi người ta rỉ tai nhau. Tuy cũng có thời phiên bản tai nạn máy bay được xác nhận, nhưng lý do thực sự là cháy nhà. Một đêm tháng Năm, ngôi nhà của Yomiyama Misaki bị lửa thiêu rụi. Cả gia đình thiệt mạng. Bố, mẹ, bản thân em ấy, và người em trai nhỏ hơn một tuổi.”

“Vì sao lại cháy ạ?”

“Không ai biết cả. Ít nhất thì cuối cùng điều tra cũng kết luận là không có dấu hiệu phạm tội. Dù có người kể rằng do thiên thạch.”

“Thật ạ?”

“Nhà Misaki ở ngoại ô phía Tây thị trấn, gần Asamidai. Nghe đồn đêm ấy có người trông thấy sao băng rơi xuống quanh đó. Bởi thế mới bảo có thể là do thiên thạch. Dù vậy chưa tìm thấy bằng chứng về việc sao rơi. Lại một dạng tam sao thất bản khác thôi, tôi đoán thế.”

“Ra vậy.”

“Đấy là những chi tiết xung quanh cái chết của Yomiyama Misaki hai mươi sáu năm trước. Tuy nhiên…” Thầy Chibiki cụp mắt nhìn xuống bàn tay, rồi nói thêm, “Tuy nhiên, tôi không chắc những điều tôi nhớ đều đúng hoàn toàn.”

“Sao ạ”

“Có thể có một khoảng gián đoạn, hoặc đôi chỗ bị sửa đổi mà tôi không nhận ra. Nhưng không đơn giản là vì chuyện xảy ra đã quá lâu rồi đâu. Nên nói thế nào nhỉ? Nếu tôi không tiếp tục nỗ lực lưu tâm, ký ức về sự kiện này sẽ trở nên mờ nhạt, nhanh chóng hơn bất kỳ vụ việc nào cùng thời. Tôi không hiểu tại sao, nhưng dường như là vậy, dù hai em sẽ khó chấp nhận với lời giải thích này.”

Mặt trái của truyền thuyết đây. Ý nghĩ này đột ngột hiện lên trong tâm trí tôi.

“Vậy còn tấm ảnh tập thể sau khi tốt nghiệp có hình Misaki cho dù bạn ấy chẳng thể có mặt ở đó thì sao ạ?” Tôi hỏi. “Thầy chủ… Ý em là, thầy Chibiki, thầy đã xem chưa?”

“Rồi.” Thầy Chibiki gật đầu, mắt ngước lên trần nhà trong giây lát. “Tôi cũng có mặt trong tấm ảnh chụp tại lớp, hồi ấy vẫn ở khu học xá cũ này. Mấy hôm sau học sinh bắt đầu nhốn nháo, vài em mang tấm ảnh tới hỏi tôi. Quả thật cậu bé qua đời có mặt trong ảnh. Yomiyama Misaki. À nói mới nhớ, trong số những em đến hỏi tôi hồi ấy, có Ritsuko.”

“Mẹ em ạ?”

“Theo ký ức của tôi thì là như thế.”

“Thầy còn giữ tấm ảnh đó không?”

“Không.” Thầy Chibiki mím môi. “Tuy rằng chúng có rửa thêm một tấm cho tôi, nhưng tôi ném đi. Chứng kiến những việc diễn ra sau đó, nói thật là tôi rất sợ. Thậm chí tôi còn nghĩ tai họa kia theo nhau kéo tới là do tấm ảnh.”

“À…” Tôi nín thở, hai cánh tay nổi gai ốc.

“Tiếp tục nhé!” Thầy Chibiki nói, đưa ánh mắt trở lại đôi tay. “Năm sau, tôi chủ nhiệm một lớp khối Bảy, thế nên tôi chỉ là người quan sát trước những sự cố diễn ra với lớp 9-3 trong niên khóa ấy thôi. Đầu học kỳ một họ hụt mất một cái bàn, mỗi tháng lại có hơn một người thiệt mạng – học sinh hoặc người thân của họ. Dù vậy, tôi cũng không nhận ra mối liên hệ với sự việc phát sinh trong năm trước đó. Tôi chỉ cảm thấy đau xót vì những bất hạnh mà các em liên tiếp phải hứng chịu. Rốt cuộc, mười sáu người có liên quan đến lớp học đã mất mạng trong cùng một năm. Sau lễ tổng kết, chủ nhiệm lớp 9-3 kể cho tôi nghe một chuyện. Dường như lớp đã bí mật tăng thêm một người. Một người không có khả năng xuất hiện lại trà trộn vào lớp. Lễ tốt nghiệp vừa chấm dứt thì học sinh ấy biến mất, và tôi mới nhận ra.”

“Như vậy em trai của Misaki chính là người ‘không có khả năng xuất hiện lại trà trộn vào lớp’, bởi vì cậu ta đã qua đời từ năm trước đó?”

“Hình như thế…” Khóe môi run run, thầy Chibiki ngập ngừng một lúc mới trả lời. “Thật lòng phải nói là tôi không dám chắc. Em Misaki đây đã kể với em chưa? Những người trực tiếp liên quan tới ‘hiện trường’ xảy ra ở lớp 9-3 sẽ chẳng nhớ ‘người dư ra’ được lâu. Cùng với thời gian, ký ức đó nhạt nhòa dần, và cuối cùng biến mất. Trên thực tế, chỉ một tháng sau, người giáo viên tiết lộ cho tôi đã quên béng những điều thầy ấy từng kể, và trong trí nhớ của tôi, sự việc cũng trở nên mơ hồ. May là tôi có ghi vào sổ…”

Giả sử đê bị vỡ, khiến nước sông tràn vào thị trấn, và rồi nước rút đi.

Tuần trước, tôi đã nghe Mei thuật lại rằng “có một người ví dụ thế này”.

Điều hiển nhiên là đã có một trận lụt, nhưng sau cơn lũ thì ký ức về đồ đạc bị ngập và hư hỏng của mọi người cũng trở nên mơ hồ. Trường hợp này cũng vậy, giống như là họ tự nhiên quên đi, chứ chẳng hề bị ép buộc.

“Hiện tượng tương tự lại xảy ra vào năm tiếp theo ở lớp 9-3, nhiều người đã chết. Những người liên quan bắt đầu nhận thấy có điều khác thường, và việc gì đó vẫn tiếp diễn. Rồi…” Thầy Chibiki luồn những ngón tay phải vào mái đầu bù xù, bới tung nó lên. “Trong một năm về sau, năm 1976, tôi lại được chỉ định làm chủ nhiệm lớp 9-3, tự mình trải nghiệm mọi chuyện. Bấy giờ lớp đã mang tiếng là ‘lớp học bị trù yếm’, và tôi trở thành một thành viên…”

8

Một năm trước đó – năm 1975 – là “năm không phát sinh”. Ôm ấp niềm hy vọng rằng có lẽ những chuyện đó sẽ chẳng bao giờ tái diễn nữa, năm 1976 thầy Chibiki quay lại chủ nhiệm lớp 9-3. Ấy vậy mà…

1976 là “năm phát sinh”.

Kết quả là trong vòng một năm đó, năm học sinh thuộc lớp 9-3 cùng chín người thân gần gũi nhất của họ qua đời: tổng cộng là mười bốn mạng. Đau ốm, tai nạn, tự sát, rồi thì bị giết… Mỗi người chết một kiểu.

Có lẽ phòng học này bị dính “lời nguyền”, thầy Chibiki nghĩ. Vậy nên thầy viết đơn xin trường đổi sang phòng học khác. Bấy giờ vừa xong kỳ nghỉ hè. Nhưng nhiều tháng tiếp theo, tai ương không hề chấm dứt. Sau lễ tốt nghiệp vào tháng Ba, “người dư ra” (hay còn gọi là “kẻ đã chết”) biến mất.

Mặc dù là chủ nhiệm lớp, nhưng thầy Chibiki không nhớ được ai là “người dư ra”. Về sau tập hợp lại thông tin, thầy tìm ra cái tên của một người có vẻ như là đối tượng thích hợp, nhưng lại không có cảm giác gì là mình đã từng trải nghiệm. Thầy đã quên. Từ lúc đó, thầy không hoàn toàn nắm bắt được câu chuyện cùng những ký ức liên quan nữa.

Trong khi chúng tôi nghe thầy kể chuyện, tiết năm trôi qua, tiết sáu cũng bắt đầu từ lâu rồi.

Bên ngoài, mưa vẫn rơi. Suốt một giờ qua, mưa càng lúc càng nặng hạt. Những ô cửa sổ cũ kỹ bụi bặm của thư viện rung lên trong gió, những hạt mưa chốc chốc lại quất ràn rạt vào mặt kính.

“Ba năm sau, lại một lần nữa tôi được chỉ định chủ nhiệm lớp 9-3. Tôi định bỏ nghề, nhưng tình thế không cho phép. Tôi cũng cầu mong sao cho năm đó là ‘năm không phát sinh’, nhưng thực tế thì không như vậy.”

Thầy Chibiki khe khẽ kể tiếp, Mei và tôi chăm chú lắng nghe.

“Đó là năm tôi thử nghiệm một biện pháp đối phó đơn giản, là đề nghị nhà trường đổi tên các lớp 1, 2… thành A, B… tức là lớp 9-3 trở thành lớp 9-C. Tôi cho rằng đổi tên ‘địa điểm’ thì lời nguyền sẽ bị xóa bỏ, thế nhưng…”

Vậy là cách đó vô tác dụng. Tôi từng nghe Mei kể rằng rất nhiều biện pháp đối phó đã được nghiên cứu và thực thi, nhưng chẳng có biện pháp nào hiệu quả.

Cuối cùng, sau đủ các thử nghiệm, họ tìm được “một cách hiệu quả để ứng phó với nghịch cảnh”, chính là đối xử với người ta như thể họ “không tồn tại” để thế chỗ cho “người dư ra” trong lớp.

“Kết quả vẫn y như cũ. Rất nhiều người thiệt mạng năm đó.”

Thầy Chibiki thở dài ân hận, rồi ngước lên quan sát phản ứng của chúng tôi. Tất cả những gì tôi có thể làm là yên lặng gật đầu.

“Người dư ra của năm là một cô bé lớp 9-3 chết vào năm 1976. Sau lễ tốt nghiệp, nhận ra điều đó, tôi lập tức ghi lại tên cô bé. Như thế thì kể cả khi ký ức về ‘người dư ra’ phai nhạt, tôi vẫn có thể nhắc nhủ bản thân rằng đó là chuyện từng xảy ra. Chính vào quãng thời gian này tôi bắt đầu phát hiện được rằng người dư ra, thâm nhập vào lớp hình như là một người bất kỳ trong số những người đã chết do tai ương mà ‘hiện tượng’ gây ra tính đến thời điểm đó.”

Thầy Chibiki lại thở dài.

“Cuối năm, tôi thôi làm giáo viên. Đến nay cũng được mười tám năm rồi. Hiệu trưởng bấy giờ tuy tỏ ra thông cảm nhưng cấm ngặt công bố chuyện lời nguyền hay bất cứ cái gì tương tự. Rồi tôi làm thủ thư của trường, vẫn ở đây từ bấy tới giờ, theo dõi diễn biến của sự kiện. Tôi quyết định hằng năm sẽ đứng ở vị trí người ngoài để quan sát ‘hiện tượng’. Và, ừm, thỉnh thoảng lại có học sinh bắt chuyện với tôi, như hai em.”

Thầy Chibiki ngừng lời, ngước lên nhìn hai chúng tôi như dò hỏi. Vẻ mặt thầy cho thấy trạng thái căng thẳng đã giảm đáng kể sau cuộc chuyện trò.

“À…” Tôi nói. “Em hỏi thầy điều này được không ạ?”

“Em muốn hỏi gì?”

“Misaki kể với em là khi ‘người dư ra’, tức ‘kẻ đã chết’, còn trà trộn trong lớp thì các sổ sách và trí nhớ đều bị sửa đổi. Những chi tiết vốn dĩ hoang đường lại trở nên hợp lý, không ai nhận ra danh tính thực sự của ‘kẻ đã chết’. Có chuyện đó thật không?”

“Thật đấy.” Thầy Chibiki trả lời không do dự. “Nhưng có tìm hiểu nguyên nhân và cách thức xảy ra cũng chẳng ích gì. Bởi cho dù các em đặt ra bao nhiêu câu hỏi thì cũng chẳng thể lý giải nổi theo logic bình thường đâu. Chỉ có thể tự nhủ, ‘hiện tượng diễn ra như thế đấy’ thôi.”

“…”

“Khó tin, đúng không?”

“Chí ít cũng không còn đầy hoài nghi như hồi đầu nữa ạ.”

“Tôi hiểu.”

Thầy Chibiki uể oải gỡ kính rồi thò tay vào túi quần rút ra một chiếc khăn mùi soa nhăn nhúm. Thầy chùi mắt kính hồi lâu, và rồi…

“Ừm, vậy thì..” Ngẩng đầu lên, thầy đeo lại kính, đăm đăm nhìn chúng tôi. “Phải, có lẽ tôi nên cho các em xem cái này. Đây hẳn là cách nhanh nhất.”

Rồi thầy mở ngăn kéo bàn. Sau khi lộc cộc xáo tung đồ trong đó một lúc, thầy rút ra một thứ. Một tập tài liệu bìa đen.

9

“Nhìn các mẫu này mà xem. Chúng mô tả hiện trạng khá sát.”

Thầy Chibiki đẩy tập tài liệu qua mặt quầy thủ thư. Tôi đón lấy, mấy ngón tay run run trên trang bìa.

“Tôi giữ bản sao danh sách các lớp 9-3 ở trong đó. Hai mươi bảy năm, kể từ năm 1972 tới năm nay. Tài liệu sắp xếp từ mới tới cũ theo trình tự từ trên xuống dưới.”

Tôi vừa nghe vừa lật bìa ra.

Đúng như thầy nói: Hai trang đầu là năm 1998 – nói cách khác, chính là danh sách lớp 9-3 hiện tại. Tên của thầy Kubodera chủ nhiệm và cô Mikami phó chủ nhiệm được viết trên cùng, bên dưới là danh sách của các học sinh.

Tên của tôi, Sakakibara Koichi, được viết ở dòng cuối cùng của trang hai. Bởi vì tôi là học sinh chuyển tới sau, còn…

Bên trái hai cái tên Sakuragi Yukari và Takabayashi Ikuo lần lượt đều đánh một chữ X bằng bút đỏ. Ở chỗ trống bên phải cột tên và thông tin liên lạc của Sakuragi có chua “Ngày 26 tháng Năm – tai nạn ở trường” và “cùng ngày – mẹ (Mieko) – tai nạn ô tô”, của Takabayashi thì chua “Ngày 6 tháng Sáu – ốm”, thêm một dòng bên phải tên Mizuno Takeru là “Ngày 3 tháng Sáu – chị gái (Sanae) – tai nạn lao động”.

“Hãy xem tờ của năm kia trước đã.”

Năm ngoái là “năm không phát sinh”. Hẳn đó là lý do thầy bảo tôi xem tờ danh sách năm kia, tôi nghĩ. Tôi làm theo lời thầy, mở trang danh danh sách lớp năm 1996.

“Tôi chắc các em đã nhận ra, những cái tên có đánh dấu X đỏ bên cạnh là những người qua đời năm đó. Còn có phần chú thích ngày và nguyên nhân cái chết. Cách ghi tương tự cũng được áp dụng khi thành viên trong gia đình các học sinh qua đời.”

“Vâng…”

Tôi đếm được bốn chữ X bên cạnh tên các học sinh năm 1996. Người thân chết là ba. Bảy người cả thảy…

“Ở dòng cuối trang hai có một cái tên viết bằng mực xanh.”

“A, đúng ạ.”

Asakura Mami.

Là cái tên ở vị trí thầy bảo.

“Kẻ đã chết của năm đó.” Thầy Chibiki nói.

Đứng bên cạnh, Mei nhoài tới gần để săm soi tập tài liệu. Hơi thở của cô sát bên làm lòng tôi bất chợt xao động.

“Cô bé tên Asakura Mami là học sinh chuyển vào lớp từ đầu tháng Tư, ở lại cho tới lễ tổng kết tháng Ba năm sau. Không ai nhận ra cô bé là ‘người dư ra’, tức là người không thể có mặt ở đó.”

“Dạ, thưa thầy Chibiki…” Tôi hỏi. “Có bảy người chết vào năm 1996, có nghĩa không phải là mỗi tháng ít nhất một người chết, đúng không ạ?”

“À, phải. Bởi vì năm đó bọn họ đã thực hiện ‘đối sách’”.

“Đối sách?”

“Chính là thứ bùa thế chỗ mà hai em đã quá quen thuộc rồi đấy. Đối xử với ai đó trong lớp như thể người đó ‘không tồn tại’.”

“À à, đúng ạ.”

“Họ đã thành công, không ai chết trong nửa năm đầu. Nhưng học kỳ hai bắt đầu chưa lâu, liền có chuyện bất ngờ xảy ra.”

“Chuyện gì ạ?”

“Học sinh đảm nhiệm vai trò ‘không tồn tại’ kia không thể chịu đựng áp lực và cô đơn, bèn phản ứng với ‘quyết định’ của lớp. ‘Các cậu coi như tớ không tồn tại ư? Nhưng có đấy. Mọi người, nhìn cho kỹ đi! Các cậu sẽ phải đối xử với tớ như thể tớ có mặt ở đây’… Em ấy bắt đầu tìm cách thể hiện bản thân, sự tình thành ra không sao kiểm soát được nữa.”

“Kết quả là ‘tai ương’ xảy ra?”

“Có vẻ như vậy.”

Ở bên cạnh, Mei thở dài khe khẽ.

Tuy không biết ai đã bị họ gán mác “không tồn tại” vào năm đó, nhưng tại cậu (hoặc cô) ấy vứt bỏ vai trò giữa chừng mà bảy người liên quan tới lớp mất mạng. Làm sao cậu (hoặc cô) ấy chấp nhận được thực tế tàn nhẫn này? Làm sao đối diện được với mọi người trong lớp và với chính mình? Vừa thoáng hình dung sự việc, toàn bộ lông măng lại dựng đứng cả lên trên hai cánh tay tôi.

“Vậy đó,” thầy Chibiki nói tiếp. “Kẻ đã chết của năm 1996 là một học sinh tên Asakura Mami, nhưng cái tên này không có trong danh sách lớp năm đó. Cô bé vốn là học sinh lớp 9-3 của ba năm trước. Nếu lật tới nữa, em sẽ thấy cô bé qua đời vì ‘tai ương’ năm 1993.”

Tôi lật tiếp mấy trang, tra danh sách lớp năm 1993.

Đúng như thầy Chibiki nói, tên của Asakura Mami nằm ở đó, bên cạnh là dấu X đỏ. Chỗ khoảng trống bên phải, thầy đã viết “Ngày 9 tháng Mười bệnh”.

“Bấy giờ mọi chuyện đều hợp lý. Nhưng mà…”

Thầy Chibiki nhoài người qua quầy thủ thư, búng nhẹ ngón tay vào tập tài liệu. “Từ tháng Tư năm trước đó đến tháng Ba năm tiếp theo, mọi chuyện không phải như thế nữa”.

“Không phải như thế nữa?”

“Chí ít, theo như tôi nhớ là vậy. Tháng Tư năm 1996, tên của Asakura Mami đáng ra nên nằm trên danh sách 1993, bởi cô bé là một thành viên của lớp học. Có lẽ trí nhớ của tôi đã phản chủ, nhưng tên cô bé không còn trong danh sách vốn dĩ nó thuộc về, tức là năm 1993 nữa. Biến mất rồi. Tất nhiên chữ X và ghi chú về cái chết của cô bé cũng vậy.”

“Thầy nói là tất cả đều biến mất?”

“Phải.” Thầy Chibiki nghiêm nghị gật đầu. “Trong cái năm ‘hiện tượng’ diễn ra, tìm kiếm ở đâu cũng vậy thôi. Chúng ta sẽ chẳng thu lượm được gì cả. Không chỉ trong các bản danh sách lớp đâu. Sự việc tương tự xảy đến với các thiết bị lưu trữ, tài liệu chính thống của trường, kể cả nhật ký, sổ tay, ảnh, băng video, dữ liệu máy tính của mọi người. Không quan trọng là loại nào. Một sự sửa chữa hoặc thay đổi không theo lẽ thường đã xuất hiện, che lấp những mâu thuẫn đáng ra phải nảy sinh khi ‘kẻ đã chết’ trà trộn với mọi người, khiến những chi tiết vốn không ăn khớp lại trở nên hài hòa.”

“Nhưng không chỉ những thứ như các bản ghi, phải không ạ? Nó còn ảnh hưởng tới ký ức của những người liên quan nữa, đúng không thầy?”

“Phải. Ví dụ như hai năm trước. Ngay cả tôi với tư cách một ‘người quan sát’ cũng chưa từng mảy may nghi ngờ sự hiện diện của Asakura Mami, dù rằng cô bé không thể tồn tại được nữa. Trên thực tế, cô bé đã qua đời vào tháng Mười năm 1993, khi mười bốn tuổi. Nhưng mọi người đều quên bẵng. Gia đình cô bé, bạn bè, thầy cô giáo… Tất cả mọi người. Chưa kể tới chuyện cô bé vẫn mười bốn tuổi tại thời điểm trà trộn vào lớp trong vai trò ‘kẻ đã chết’ năm 1996, và mọi người đều tin tưởng một hiện thực đã bị ngụy tạo, rằng cô bé vừa mới lên lớp Chín. Không một ai hoài nghi. Không một ai ngờ vực. Những ký ức về quá khứ và những chi tiết khác liên quan đến cô bé đều xáo trộn, biến đổi để trở nên có nghĩa. Một năm trôi qua, khi ‘kẻ đã chết’ biến mất sau lễ tổng kết, ký ức và các bản ghi chép rốt cuộc trở lại vẹn nguyên hình hài. Và tất cả những người từng gần gũi với cô bé – chủ yếu là bạn cùng lớp và gia đình – đều mất hết ký ức về việc cô bé từng hiện diện với tư cách là ‘kẻ đã chết’.”

Đôi mắt tôi vẫn dán vào danh sách lớp trong tập tài liệu, lời đáp lừng khừng trên môi. Thật là quá sức hoang đường. Dù nói ra lời ấy, cũng chẳng làm thay đổi được gì. Tôi nghĩ như thế đấy.

“Tại sao những điều này lại xảy ra? Như tôi đã nói lúc trước, logic là thứ khó nhìn thấu. Cơ chế đằng sau nó cũng khó bề lý giải. Có thể đoán chắc là không hề có tác động vật chất thực sự khiến những cái tên xuất hiện hay biến mất trên các tờ danh sách lớp. Tôi đành thử hình dung tình thế theo hướng này.”

“Ý thầy là sao ạ?” Mei đặt câu hỏi.

Những nếp nhăn hằn sâu trên vùng da giữa hai mắt thầy Chibiki. “Ý tôi là có thể vấn đề chỉ nảy sinh trong trí óc của những người liên quan, như chúng ta. Trí óc chúng ta đã diễn dịch các biến đổi vật chất vốn không thực sự xảy ra trở thành những biến đổi đang diễn ra”.

“Như là thôi miên tập thể ấy ạ?”

“Phải. Một dạng na ná như thế. Trung tâm là ngôi trường này, rồi mở rộng phạm vi ra toàn thị trấn Yomiyama. Có khi còn vươn xa hơn, ra thế giới bên ngoài nữa.”

Đến đây, thầy Chibiki lại thở dài thườn thượt.

“Nhưng đây chẳng qua chỉ là phỏng đoán hay ảo tưởng của tôi sau ngần ấy năm làm quan sát viên. Tôi không có chứng cứ, cũng chẳng cách nào chứng minh được. Mà giả dụ có chứng minh được đi chăng nữa thì tôi cũng không biết nó sẽ mang lại ý nghĩa gì.”

“…”

“…”

“Về cơ bản, tôi đã bỏ cuộc.” Thầy Chibiki chia hai tay ra như để thêm hiệu ứng cho lời nói của mình. “Sau ngần ấy thời gian, chỉ có mỗi một biện pháp phát huy tác dụng. Chính là ‘đối sách’ mà các em đang phải nghiệm chứng. Biện pháp đối phó lạ lùng được nghĩ ra và áp dụng từ mười năm nay. Tuy nhiên, bên cạnh những năm rũ bỏ ‘tai ương’ thành công, vẫn có trường hợp nửa đường gãy gánh như hai năm trước.”

“Hai năm trước…” Giọng Mei bất chợt vang lên. Cô lại nhoài đến gần, nhìn vào tập tài liệu trong tay tôi. “Chẳng phải năm đó cô Mikami là giáo viên chủ nhiệm lớp 9-3 sao?”

“Cái gì?” Tôi giật thót, nhìn lại bản danh sách lớp. Quả nhiên! Cô Mikami được ghi chú là giáo viên chủ nhiệm. “Cậu nói đúng.”

 “Các em không biết sao?” Nét ngạc nhiên thoáng hiện trên mặt thầy Chibiki. Thầy gõ gõ ngón giữa bàn tay phải lên vầng trán nhợt nhạt của mình. “Hẳn cô đã nếm trải một quãng thời gian kinh khủng. Thế mà vẫn phải làm phó chủ nhiệm cho lớp 3 năm nay…”

10

Thầy Chibiki kể cho chúng tôi nghe về “hiện tượng” thêm một lúc nữa. Nhìn chung toàn những thông tin tôi chưa từng được biết. Nhưng với Mei thì không hẳn. Tôi cho rằng có không ít chuyện cô đã nghe kể từ trước rồi.

Nhiều thông tin tôi được nghe lần đầu, ví dụ như quy tắc “vùng ảnh hưởng” của những “tai ương”. Đây là kết luận của thầy Chibiki, dựa trên những điều ghi chép được với tư cách quan sát viên suốt thời gian qua.

“Có vẻ như ‘tai ương’ chỉ tác động đến các thành viên của lớp cùng người thân trực hệ hai đời.” Thầy Chibiki nhấn mạnh. “Nghĩa là bố mẹ, ông bà và anh chị em. Quan hệ huyết thống cũng là một điều kiện. Chưa từng có ai là người thân không có quan hệ huyết thống qua đời, như cha mẹ kể, hay anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Tôi nghĩ hoàn toàn yên tâm khi coi họ không thuộc vùng ảnh hưởng.”

“Liên quan đến huyết thống ạ?” Mei lẩm bẩm.

Ông bà, bố mẹ, anh chị em cùng huyết thống. Vậy thì cô dì, chú bác và anh em họ không thuộc nhóm này.

“Vùng ảnh hưởng còn liên quan tới địa lý. Lúc trước tôi có nói rằng ‘hiện tượng’ tập trung ở ngôi trường này và thị trấn Yomiyama. Cho nên càng rời xa thị trấn, sức mạnh của nó càng suy yếu.”

“Ý thầy là nếu đi đủ xa thì sẽ an toàn ạ?”

“So sánh đơn giản thì nó giống điện thoại di động ở vùng không phủ sóng vậy. Cho tới lúc này, chưa có trường hợp nào mà thành viên gia đình sống ở nơi khác cách xa đây bị ảnh hưởng bởi ‘tai ương’. Có rất ít trường hợp cư dân Yomiyama chết ở khu vực ngoài thị trấn. Cho nên…”

Chẳng phải như thế có nghĩa là nếu bất trắc xảy ra thì chỉ cần rời thị trấn là ổn thôi sao?

“Ừm… Cho em hỏi câu này…” Sực nhớ ra một điều, tôi hỏi. “Trong các chuyến dã ngoại của lớp trước đây, có chuyện gì xảy ra không ạ?”

Tôi không ngạc nhiên, khi thấy chân mày của thầy Chibiki u uất nhíu chặt lại, “Thảm kịch năm 1987.”

“Dạ?”

“Một tai nạn kinh hoàng xảy ra trong chuyến dã ngoại của lớp năm 1987. Thời bấy giờ, dã ngoại tập thể được tổ chức vào học kỳ đầu của lớp Chín. Địa điểm dã ngoại là ở tỉnh khác, nói cách khác là ‘ngoài vùng ảnh hưởng’, đáng lẽ các học sinh của lớp 9-3 không bị ‘tai ương’ quấy nhiễu. Nhưng rồi…”

Đường nhíu giữa đôi mày thầy Chibiki xô lại gần hơn, và trong khi nói, giọng thầy lộ vẻ đau đớn, “Năm đó, các học sinh lên xe buýt theo số lớp rời Yomiyama tới sân bay. Dọc đường gặp tai nạn. Đang bon bon trên quốc lộ, sắp ra khỏi địa giới thị trấn, thì một chiếc xe tải chạy theo chiều ngược lại tông thẳng vào chiếc xe buýt chở các học sinh lớp 3. Tài xế xe tải ngủ gật trong khi lái xe.”

Trái tim trĩu nặng, tôi liếc sang xem phản ứng của Mei, nhưng vẻ mặt cô chẳng hề thay đổi. Hẳn là đã nghe kể về vụ này rồi.

“Tai nạn thương tâm ấy cướp đi mạng sống của giáo viên chủ nhiệm và sáu học sinh lớp 9-3. Tổng cộng là bảy người. Chiếc xe buýt đi sau cũng bị liên lụy, gây không ít thương vong cho những người không dính dáng gì đến lớp 3.”

“Vậy ra… đó là nguyên nhân khiến những năm tiếp theo nhà trường tổ chức dã ngoại ngay từ lớp Tám?”

“Đúng thế.” Thầy Chibiki gật đầu, đôi mày vẫn nhíu chặt. “Mà không chỉ riêng việc đi dã ngoại đâu. Họ thậm chí còn ngưng tham gia các chương trình công ích nữa kìa. Kể từ tấn thảm kịch đó, mọi hoạt động đòi hỏi phải ngồi xe buýt đánh số theo lớp đã hoàn toàn chấm dứt ở khối Chín.”

Đúng lúc ấy, tiếng chuông lanh lảnh báo hết tiết sáu vang lên.

Thầy Chibiki liếc nhìn đồng hồ trên tường rồi ngồi sụp xuống chiếc ghế bên trong quầy thủ thư. Thầy gỡ kính rồi lại dùng khăn tay lau sạch tròng, “Hôm nay tạm dừng ở đây. Tôi đã mất kiểm soát và nói dài dòng quá rồi.”

“Không đâu ạ… Nhưng còn một điều nữa?”

“Điều gì?”

“Dạ, nếu thầy không phiền thì em muốn biết về tính hiệu quả của ‘đối sách’.” Tôi tựa khuỷu tay lên mặt quầy, nhìn chằm chằm vào gương mặt nhợt nhạt của người thủ thư. “Thầy nói rằng chiến lược vờ coi ai đó trong lớp ‘không tồn tại’ đã kéo dài được mười năm. Tỷ lệ thành công từ bấy đến nay như thế nào?”

“À. Một câu hỏi trúng trọng tâm.” Thầy Chibiki ngả người ra lưng tựa ghế, khép mắt hít một hơi dài. Rồi không thay đổi tư thế, thầy mở mắt đáp, “Năm 1988 – năm đầu tiên – là một năm thành công. Mặc dù rõ ràng là ‘kẻ đã chết’ xâm nhập vào lớp từ tháng Tư, nhưng không ai chết cả. ‘Thảm kịch 87’ vừa xảy ra ngay năm trước đó, nên tôi nghĩ giống như chết đuối vớ được cọc, ai nấy đều tích cực thử nghiệm các ý tưởng mới. Cho dù thế nào chăng nữa, từ bấy trở đi đã hình thành thói quen áp dụng ‘đối sách’ này trong các ‘năm phát sinh’. Từ năm tiếp đó cho tới nay, không tính năm hiện tại, cả thảy đã có năm ‘năm phát sinh’. Như vừa kể thì năm kia nửa đường gãy gánh. Trong bốn năm còn lại thì hai năm thành công, hai năm thất bại.”

“Thất bại, theo ý thầy, là học sinh đóng vai ‘không tồn tại’ đã từ bỏ nghĩa vụ của mình, phải không ạ?”

“Không, không phải.” Thầy Chibiki đáp, mở mắt ra. “Đối sách này có một vài quy tắc. Chẳng hạn như chỉ cần coi người được chọn là người ‘không tồn tại’ ở trường thôi, còn ra ngoài thì vẫn giao tiếp được, trừ trường hợp hoạt động bên ngoài có liên quan đến nhà trường. Đại khái thế. Điều đáng lo ngại là các quy tắc đều không mang tính tuyệt đối. Nói cách khác, không tài nào biết chắc được đối sách có thể thất bại vì những nguyên nhân gì…”

“Thế thì khủng khiếp quá!”

“Sự việc là như thế đấy,” thầy Chibiki ủ rũ nói, đẩy gọng kính lên. “Sau ngần ấy năm cố nghiền ngẫm đủ loại chiến lược, tôi đã bắt đầu ngán ngẩm. Trước hết, tôi không tin ‘hiện tượng’ này thuộc loại ‘lời nguyền’ thông thường. Quả thật sự kiện Misaki hai mươi sáu năm trước đã khiến mọi thứ đảo lộn so với trật tự vốn có, nhưng tai ương trút xuống đầu chúng ta không bắt nguồn từ cơn giận hay oán hờn nào của linh hồn cậu ấy, cũng như không một thương vong nào là tại ‘kẻ đã chết’ cố ý sắp xếp hay mong muốn gây ra cho chúng ta. Chẳng ai nuôi ác ý hay tâm địa hãm hại ở đây cả. Hoàn toàn không. Các em hẳn sẽ phản bác rằng, có một lực lượng vô hình đang cố tình nhằm vào chúng ta. Thiên hạ thường có định kiến như thế trong các thảm họa, kể cả thảm họa tự nhiên. Nhưng thực tế, mọi chuyện chỉ đơn thuần là xảy ra. Chính vì thế nó không phải là một ‘lời nguyền’, mà là một ‘hiện tượng’. Một hiện tượng tự nhiên như vòi rồng hay động đất, cùng lắm là siêu tự nhiên.”

“Một hiện tượng siêu tự nhiên ạ?”

“Cũng không đến nỗi ‘siêu tự nhiên’ lắm. Vì những đối sách để ngăn ngừa nó ít nhiều cũng có căn cứ khoa học đấy. Chẳng hạn như…” Thầy Chibiki nhìn ra cửa sổ “Trời đang mưa. Để tránh cho mưa làm ướt người, tốt nhất chúng ta đừng đi ra ngoài. Nếu nhất định phải ra ngoài, đối sách là mang dù. Nhưng bất kể che dù thế nào cũng không thể hoàn toàn ngăn mưa hắt. Thậm chí khi mưa rơi theo một hướng cố định thì cách cầm dù hoặc cách bước đi vẫn có thể khiến ta ướt sũng. Tuy vậy, mang dù vẫn tốt hơn là không mang thứ gì cả.”

Thầy Chibiki đưa mắt nhìn chúng tôi, như muốn hỏi Rõ ràng rồi chứ?

Tôi bối rối không tìm được lời đáp, Mei bèn lên tiếng, “Cũng có thể ví nó như hạn hán và cầu mưa ạ.”

“Là sao?”

“Chúng ta đang trải qua một trận hạn hán. Nhảy múa thế nào cũng không cầu được mưa, nhưng nếu ta đốt một đống lửa cho khói bay lên trời, thì về lý thuyết mà nói, hành động đó có tác dụng. Đôi lúc nó gây tác động đến bầu khí quyển khiến mưa rơi xuống, nhưng đôi lúc lại không.”

“Ừ ừ. Đại khái thế.”

“Sao nữa ạ, thầy Chibiki?” Cảm thấy ví von cũng đủ nhiều rồi, tôi bèn chen ngang. “Năm nay thì sao ạ? Liệu ‘tai ương’ có ngừng lại nhờ việc tăng số người ‘không tồn tại’ lên không?”

“Thật lòng, tôi không biết. Nhưng mà, chẳng phải tôi đã nói rồi sao…” Thầy Chibiki đẩy gọng kính lên. “Một khi đã bắt đầu thì các ‘tai ương’ gần như chẳng bao giờ ngừng lại. Vậy nên…”

“Gần như chẳng bao giờ?” Tôi nhấn mạnh vào ý nghĩa của từng từ. “Nghĩa là đã có lúc nó ngừng lại. Đó…

Reeeeeng. Đúng lúc ấy có âm thanh như tiếng chuông điện thoại đời cổ lỗ sĩ. Phớt lờ câu hỏi của tôi, thầy Chibiki lôi một thiết bị màu đen ra khỏi túi áo. Vậy ra đó là tiếng chuông điện thoại di động của thầy.

“Tôi xin lỗi. Đi một lúc nhé…”

Thầy Chibiki áp điện thoại lên tai, trả lời vắn tắt với tông giọng mà chúng tôi chẳng thể nghe ra, xong lại nhét điện thoại trở vào túi áo.

“Bây giờ tôi có việc rồi. Để lần khác tiếp tục nhé!”

“Vâng, được ạ.”

“Có điều từ mai tôi sẽ tạm thời vắng mặt ở đây. Vì một việc riêng, tôi phải rời khỏi thị trấn vài ngày. Muộn nhất là đầu tháng tới tôi sẽ trở về.” Thầy Chibiki nói, gương mặt lộ rõ vẻ mệt mỏi.

Thầy chậm chạp nhỏm lên khỏi ghế, chìa tay lấy tập tài liệu tôi đang cầm… Đúng lúc tôi lại nhớ ra một điều.

“Chuyện cuối cùng…” Tôi nhanh nhảu, “em muốn xác nhận.”

“Gì vậy?”

“Chuyện xảy ra mười lăm năm trước. 1983 là ‘năm không phát sinh’ hay ‘năm phát sinh’ ạ?”

“Năm 83 hả?”

“Hẳn là thầy cũng có danh sách lớp năm đó trong này, phải không ạ? Vậy thì…”

Tôi định lật mấy trang trong tập tài liệu, nhưng thầy Chibiki giơ tay ngăn lại, “Không cần kiểm tra đâu Sakakibara. Tôi nhớ mà. Bốn năm sau khi tôi trốn đến đây làm thủ thư… Năm 83 là ‘năm phát sinh’. Năm đó, lớp 9-3…”

Tôi buột ra một tiếng rên, “Thì ra là vậy. Thế mà em lại cứ cho rằng không thế nào.”

“Sao cơ? Năm ấy có chuyện gì… À, tôi hiểu rồi.” Đến đây thì thầy Chibiki vỡ lẽ. “Ra vậy. Năm Reiko học.”

Năm nay dì Reiko hai mươi chín tuổi, năm 1983 dì học lớp Chín, thành viên của lớp 9-3 trường Bắc Yomi. Và cũng…

“… Là năm Ritsuko mẹ em qua đời.” Một làn sương u ám mới, buông xuống khuôn mặt thầy Chibiki.

“Chuyện đó lẽ nào lại xảy ra ở… thị trấn này?”

“Đúng ạ, mẹ trở về nhà ngoại để sinh em. Sau khi em chào đời mẹ còn nán lại một thời gian nữa. Cho nên…”

“Vậy là Ritsuko cũng chết ở Yomiyama,” thầy Chibiki buồn bã lẩm bẩm. “Tôi chưa từng nhận ra điều này. Thế đấy. Sự việc diễn biến như thế đấy.”

Thế đấy. Sự việc diễn biến như thế đấy.

Mẹ Ritsuko của tôi qua đời mười lăm năm trước.

Sau khi sinh tôi, mẹ bị hậu sản, rồi mắc cảm, tình hình cứ nguy ngập dần… Đó là những lời tôi vẫn được nghe về cái chết của mẹ, tính cho tới nay. Nhưng thật ra đấy rất có thể là một “tai ương” liên quan đến “hiện tượng” của lớp 9-3 trường Bắc Yomi… Không, giờ thì không còn là rất có thể nữa. Là chắc chắn rồi.

Cũng có khả năng chỉ đơn giản là trùng hợp. Nhưng với tình thế hiện tại của mình, tôi khó lòng thuyết phục bản thân tin vào nó.