Chương 4: May III

Another

Đăng vào: 12 tháng trước

.

1
 
 
Thứ Sáu tuần tiếp theo, tôi lại đến khu Misaki và dừng lại trước “Đôi mắt xanh trống rỗng. Dưới ánh chiều tà của Yomi”, lần này đúng lúc xế chiều.
 
Tuần trước tôi đến đây hoàn toàn do ngẫu nhiên. Tôi tìm ra nó trên đường lang thang qua thị trấn, nhưng hôm nay thì khác. Tôi không định bụng tới ngay từ đầu. Nhưng với một mục đích rất khác, cuối cùng tôi lại trở lại nơi đây.
 
Phải một lúc nữa mặt trời mới lặn, nhưng khung cảnh ở khu phố thật xứng với từ “chiều tà”. Bây giờ mà một người quen xuất hiện dưới ráng đỏ của tà dương, có khi tôi cũng không nhận ra ngay được.
 
Đến lúc này, tôi đã quên hẳn ý định ban đầu. Nên quay lại và về nhà thôi. Suy nghĩ đó sắp làm tôi quay gót thì tấm biển “Dưới ánh chiều tà của Yomi” bỗng hiện ra trước mắt. Không dừng được, chân tôi tự bước đến gần. Bên kia cửa sổ trưng bày hình ô van vẫn là con búp bê bán thân xinh đẹp đến dị thường như tuần trước, “đôi mắt xanh trống rỗng” của nó như phản chiếu hình ảnh của tôi.
 
Đây là nơi nào?
 
Bên trong có gì?
 
Từ lần đầu tới đây, tôi đã luôn tự hỏi như vậy.
 
Không gì có thể đánh bại được tính tò mò. Quên bẵng mục đích ban đầu, tôi đẩy cánh cửa bên cạnh tấm biển. Một tiếng chuông vang lên khô khốc. Tôi dè dặt bước tới.
 
Ánh sáng trong này u ám đi nhiều vì bị cản trở bởi cách bài trí, so ra còn có vẻ “chiều tà” hơn hoàng hôn bên ngoài. Không gian sâu hơn tôi tưởng, càng tiến vào càng thấy rộng. Những chùm sáng le lói phát ra từ đèn chiếu đủ màu sắc, thỉnh thoảng vẽ nên những vòng tròn dìu dịu, làm nổi bật vô số búp bê các loại giữa vùng bóng tối. Có những con cao đến hơn một mét, nhưng số búp bê nhỏ cũng rất nhiều.
 
“Chào quý khách.” Giọng nói đón mời cất lên.
 
Một bóng người xuất hiện sau chiếc bàn hẹp dài ở phía bên trái lối vào, nằm ngay gần cửa sổ trưng bày. Người đó mặc trang phục xỉn màu đến nỗi trông như hòa vào không khí ảm đạm của cửa hàng. Qua giọng nói, có thể nhận ra đó là một bà lão.
 
“À… Chào bà ạ.”
 
“Gì đây? Nơi này rất ít khi thấy các chàng trai trẻ. Cháu đến mua đồ? Hay là…”
 
“Dạ, cháu đi ngang và muốn xem tiệm mình bán gì? Đây là… cửa hàng đúng không ạ?”
 
Có một máy tính tiền cũ kỹ ở một góc bàn. Phía trước là tấm bảng viết bằng phấn vàng, “Vé vào xem – 500 yên”. Tôi bèn lục túi kiếm cái bóp.
 
“Cháu học trung học?” Bà lại hỏi làm tôi giật mình.
 
Tự trấn tĩnh, tôi đáp, “Dạ, ở Bắc Yomi ạ.”
 
“Vậy ta chỉ lấy nửa giá.”
 
“Ồ, cảm ơn bà.”
 
Tôi đến gần và trả tiền vé. Cánh tay đưa ra của bà lão nhăn nheo và già nua, đồng thời tôi cũng được thấy rõ gương mặt bà.
 
Bà có mái tóc bạc trắng và sống mũi quặp xuống như phù thủy. Không rõ mắt bà màu gì, vì bà đeo kính tròng xanh đen.
 
“Ừm… đây là cửa hàng búp bê ạ?” Tôi khẽ hỏi.
 
“Cửa hàng búp bê? Để xem…” Bà lão lộ vẻ trầm tư rồi cất giọng khàn khàn. “Có lẽ nên gọi là nửa cửa hàng, nửa phòng trưng bày.”
 
“Ồ.”
 
“Chúng ta có bán hàng, nhưng không phải dạng đồ một cậu học sinh mua nổi. Tuy thế cứ xem cho thỏa thích. Dù sao hiện giờ cũng chẳng có khách.” Bà lão đặt hai tay lên bàn và chậm rãi rướn người về phía tôi. Có vẻ như mắt bà nhìn không rõ.
 
“Nếu cháu muốn ta sẽ pha trà,” bà nói tiếp, gương mặt gần đến mức tôi cảm nhận được từng hơi thở. “Đằng sau có sofa, nếu thấy mệt có thể ngồi xuống nghỉ.”
 
“Dạ được ạ. Mà khoan, cháu không uống trà đâu, cảm ơn bà.”
 
“Ừ, cứ tự nhiên.”
 
 
 
2
 
 
 
Bên trong cửa hàng (hay phải nói đúng hơn là “bên trong phòng trưng bày”) có tiếng đàn lờ lững nghe cũng u ám như ánh đèn, nhạc cụ chính hình như là cello. Bài này tôi từng nghe ở đâu đó, nhưng khả năng chỉ đủ nhận ra là bản nhạc sầu thảm, chứ không phân biệt được gì khác. Nếu có ai bảo đây là đoạn nhạc kinh điển của thiên tài nào đó, hay cực kỳ nổi tiếng vào thập niên 90, chắc tôi cũng chỉ đáp “Thật vậy sao?” mà gật đầu cho qua.
 
Để lại cái cặp vướng víu ở sofa phía sau, tôi nín thở bước rón rén quanh phòng trưng bày.
 
Thoạt đầu tôi không khỏi liếc trộm bà lão ngồi ở bàn, nhưng rồi cũng chẳng quan tâm nữa. Cặp mắt tôi đã bị hút hết vào lũ búp bê. Dưới ánh sáng lập lòe, một trong số chúng đang đứng, một số lại ngồi, một số thì nằm hẳn xuống. Đôi mắt chúng mở to như kinh ngạc hoặc khép hờ như chìm trong suy tư, vài con thì như say ngủ…
 
Hầu hết là búp bê nữ xinh xắn, nhưng cũng có những cậu bé, và cả động vật nữa. Ngoài ra còn có dạng kỳ quái ghép giữa người và thú. Mà không chỉ có búp bê, trên tường còn cả tranh vẽ. Một bức tranh sơn dầu vẽ khung cảnh ảo mộng nào đó khiến tôi chú ý.
 
Giống cô gái đằng cửa sổ, non nửa số chúng là búp bê khớp cầu. Tất cả khớp nối ở cổ tay, khuỷu tay, bả vai, cổ chân, đầu gối, hông đều là các khối cầu để tiện di chuyển và tạo dáng. Cách thiết kế tương đối độc đáo, tạo ra ấn tượng sâu đậm.
 
Nói thế nào nhỉ? Dù bề ngoài rất giống con người, thật ra búp bê không có điểm nào tương đồng với con người cả. Tồn tại trên thế giới này mà không thuộc về thế giới này. Bằng hình dạng mô phỏng của mình, chúng đứng ở ranh giới mập mờ giữa hư và thực.
 
… Đã bao lâu rồi?
 
Tôi liên hồi hít thở những hơi thật dài, thật sâu. Bất giác cảm thấy mình đang phải hít thở thay cho chúng, những vật thể không hô hấp.
 
Tôi cũng có đôi chút hiểu biết về loại búp bê này.
 
Vào kỳ nghỉ xuân trước khi lên trung học, tôi đã tìm được trong thư viện của bố một tập ảnh của Hans Bellmer, thợ làm búp bê người Đức. Tôi cũng đã xem qua vài bộ sưu tập ảnh búp bê do nghệ nhân Nhật Bản sản xuất, đa phần lấy cảm hứng từ tác phẩm của ông.
 
Nhưng đây là lần đầu tiên tôi trực tiếp thấy chúng, với số lượng lớn.
 
Lại tiếp tục hít thở sâu. Một phần vì tôi nghĩ mình có thể sẽ ngưng thở nếu không tập trung.
 
Hầu hết búp bê có bảng giới thiệu tên người chế tác. Những bức tranh trên tường cũng vậy. Chẳng có cái tên nào tôi quen, nhưng hẳn phải có vài nghệ nhân nổi tiếng trong đó.
 
“Mời đi lối này”.
 
Tôi xem qua đám búp bê và định trở về sofa lấy cặp thì phát hiện ra tấm bảng ở cuối đường. Có một mũi tên chỉ xuống bên cạnh dòng chữ. Hở? Nhìn thật kỹ, tôi mới nhận ra còn một bậc thang dẫn xuống tầng hầm.
 
Tôi quay lại nhìn bà lão.
 
Bà vẫn ngồi ở góc tối sau chiếc bàn, mặt cúi gằm không hề động đậy. Chắc bà đã thiếp đi. Hay đang suy tư gì đó. Dù sao… Tấm bảng đã ghi rõ “mời”, chắc cũng không cần xin phép thêm đâu nhỉ.
 
Vẫn hít thở sâu, tôi lặng lẽ bước xuống những bậc thang.
 
 
 
3
 
 
Tầng hầm có vẻ chật chội hơn bên trên. Nó tạo cảm giác như một hầm mộ. Nhiệt độ thấp khiến không khí rất lạnh.
 
Hẳn người ta đã lắp máy điều hòa để chống ẩm mốc. Đầu thì nghĩ ngợi được những điều thực tế như vậy, mà lòng thì cảm giác rất mơ hồ là năng lượng đang bị hút khỏi cơ thể theo mỗi bước đi, có thể là tại cái lạnh đang lan dần lên từ dưới chân. Khi xuống bậc thang, không hiểu sao đầu tôi cứ ong ong, lưng nặng trĩu như đang bị thứ gì chồng chất.
 
Thế rồi…
 
Đúng như một linh cảm vô căn cứ của tôi, phía trước chợt hiện ra một cảnh tượng thoát ly phàm tục.
 
Cũng là ánh đèn mập mờ u ám như tầng trệt, nhưng ánh sáng trắng rõ hơn…
 
Vô số búp bê được đặt trên bàn chơi bài, trên những chiếc ghế bành, trong tủ kính, nơi lò sưởi, hay thậm chí nằm lăn lóc dưới sàn. Nói chính xác hơn, chúng không phải “búp bê”, mà là “những phần cơ thể búp bê”.
 
Các nửa thân trên, như cô gái trong cửa sổ, được đặt trên bàn. Phần bụng để ở ghế, đầu và tay xếp lên kệ trưng bày. Tất cả tạo ra cảnh trí của căn phòng. Có vài cánh tay thẳng đứng bên trong lò sưởi, một số cẳng chân lại thò ra từ ghế hay cạnh tủ. Diễn tả kiểu này ắt hẳn sẽ tạo cảm giác ghê rợn và bệnh hoạn, nhưng lạ thay tôi lại không thấy gì. Chỉ biết rằng, không hiểu sao, tôi nhận ra được nét nghệ thuật trong cách bài trí những phần cơ thể nằm lộn xộn không trật tự kia. Tuy nhiên, có khả năng đó chỉ là do tôi tưởng tượng.
 
Ngoài lò sưởi, còn có vài ô lõm được cố ý tạo ra trên bức tường màu trắng. Hiển nhiên là để đặt thêm búp bê bên trong. Một ô lõm chứa cô gái mất cánh tay phải, gương mặt rất giống cô gái chỗ cửa sổ. Ô bên cạnh lại là cậu bé bị che mất nửa dưới mặt, với cặp cánh dơi mỏng đang gập lại phía sau lưng. Ở ô khác, một cặp song sinh liền bụng trông rất cân xứng.
 
Bước từ tốn đến giữa phòng, tôi lại càng tập trung hít thở sâu hơn.
 
Trong từng hơi thở, khí lạnh tràn xuống phổi và lan ra khắp người. Tôi có cảm giác càng lúc mình càng tiến gần đến thế giới của những con búp bê. Hay có lẽ…
 
Ở đây cũng lửng lơ điệu nhạc sầu thảm giống như điệu nhạc đang phát trên tầng trệt. Nếu nhạc dừng, có khi tôi sẽ nghe được những điều bí mật lũ búp bê đang thì thầm với nhau trong căn hầm lạnh lẽo này cũng nên. Lại một ý nghĩ bất chợt nữa…
 
Tôi tự hỏi tại sao? Tôi đang làm gì ở nơi thế này, nơi bao bọc bởi những thứ này?
 
Tất nhiên câu hỏi không dành cho tôi trả lời.
 
Aaa… Tại sao giờ mới nhận ra…
 
Mục đích ban đầu của tôi. Nói có phần khó nghe, là theo dõi một người. Sau khi tiết thứ sáu kết thúc, tôi rời lớp cùng Mochizuki Yuya – cậu bạn cuồng Munch, vì chung đường về nhà. Rốt cuộc Kazami, Teshigawara và một cậu nhỏ con mặt búng ra sữa tên Maejima (sau này tôi mới biết cậu ta là kiện tướng môn Kendo) lại nhập bọn. Rồi từ cửa sổ ở hành lang, tôi chợt thấy Misaki Mei đi trên sân. Không hiểu sao cô vắng mặt ở lớp cả buổi chiều hôm đó, nên tôi không rõ cô đã đi đâu.
 
“Không phải nữa chứ…” Cái nhìn của đám con trai đi cùng hẳn là khó coi lúc nhận ra phản ứng của tôi trước cô ấy. Nhưng vừa qua quýt “Gặp lại các cậu sau,” tôi vừa bỏ họ mà chạy.
 
Mei đã không đến trường cả hai ngày thứ Hai và thứ Ba. Có khi nào cô bị thương thật? Mei vắng mặt khiến tôi lo ngay ngáy, nhưng đến thứ Tư cô xuất hiện như chưa hề có chuyện xảy ra, vô tư ngồi bàn cuối dãy cạnh cửa sổ như mọi khi. Chẳng thấy cô đau ốm gì cả.
 
Tôi còn tưởng bọn tôi sẽ được nói chuyện trên tầng thượng như giờ Thể dục tuần trước. Nhưng hy vọng chưa kịp lóe đã tắt. Chẳng thấy Misaki Mei đâu, thậm chí cho đến cuối ngày. Nhưng đến thứ Năm và thứ Sáu, tức là hôm qua và hôm nay, tôi có dịp trao đổi vài lời với cô. Thật lòng thì tôi muốn có nhiều thời gian hơn để trò chuyện cùng Mei, nhưng cũng chưa biết phải nói gì, và cứ do dự mãi như vậy…
 
Rồi tôi bắt gặp Mei khi đang trên đường về nhà.
 
Nghĩ lại thì thật xấu hổ. Đơn giản là tôi chỉ hành động theo bản năng, chạy một mạch ra cổng theo hướng cô. Dù thấy cô rời trường bằng cổng sau, tôi đã không gọi mà lặng lẽ bám theo. Đó là lúc mục đích “theo dõi ai đó” của tôi bắt đầu. Tôi đi theo Mei, có lúc tưởng như mất dấu trên những con phố lạ lẫm, nhưng rồi lại tìm ra được. Nếu đến gần chắc tôi đã cất tiếng gọi. Nhưng không hiểu sao khoảng cách giữa hai chúng tôi không rút ngắn đi, và tôi trở thành một kẻ theo đuôi chuyên nghiệp.
 
Ráng chiều lại chực buông, bấy giờ tôi đã hoàn toàn mất dấu Mei. Đó cũng là lúc tôi không rõ mình đi đường nào mà vô tình lại đến đây, đứng trước ngôi nhà “Đôi mắt xanh trống rỗng. Dưới ánh chiều tà của Yomi” ở khu Misaki.
 
Misaki Mei.
 
Chỉ vài ngày sau khi tôi nhập học, những bất thường – hay nói đúng hơn là bí ẩn – xung quanh cô càng lúc càng lớn, chiếm lấy một góc tâm trí tôi. Dù vậy, tôi chẳng thể hiểu rõ nó là gì. Vẫn còn hàng đống chi tiết tôi không hoặc chưa lý giải được. Thật ra phải nói rằng điều tôi chưa biết còn rất nhiều. Cả chuyện chị Mizuno nữa. Tôi đã thử xâu chuỗi những thông tin chị đưa, nhưng vẫn chẳng tìm ra kết luận gì. Thực sự tôi đã hết cách.
 
Hỏi trực tiếp có lẽ là cách nhanh nhất. Tôi hiểu điều đó nhưng…
 
“Á!” Tôi vô tình hét lên khi nhận ra một vật nằm sâu bên trong khung cảnh lạ lùng ở tầng hầm, thứ mà ban nãy tôi không để ý đến. Một hộp gỗ sáu cạnh dựng đứng, cao cỡ đứa trẻ, sơn đen. Quan tài? Đúng, là một cỗ quan tài kiểu phương Tây nằm lặng lẽ ở đó, bên trong là…
 
Thần trí mê muội, tôi cố lắc đầu thật mạnh. Xoa xoa hai vai đang lạnh cóng, tôi bước tới chỗ quan tài. Mắt tôi không thể rời khỏi con búp bê bên trong bởi nó có diện mạo hoàn toàn khác so với những thứ trong tầng hầm.
 
Một con búp bê đầy đủ các phần cơ thể, mặc bộ váy mỏng nhạt màu. Hơi nhỏ hơn người thật. Tôi chắc chắn thế, vì biết một người trông giống hệt nó.
 
“Mei?” Và đó cũng là lý do giọng tôi run rẩy. “Tại sao…”
 
Tại sao nó lại giống Mei? Chỉ có mái tóc màu nâu đỏ trải quá vai là không giống, còn lại thì gương mặt, dáng người… tất cả đều như được tạc ra từ chính Misaki Mei mà tôi biết.
 
Con mắt phải nhìn đăm đăm vào hư không, cũng là một “con mắt xanh trống rỗng”. Mắt trái ẩn sau mái tóc. Nước da còn xanh xao và trông giống sáp hơn cả Mei. Miệng búp bê, với làn môi đượm sắc đỏ, thoạt nhìn như đang định nói điều gì…
 
Cô muốn nói gì?
 
Với ai?
 
Và cô là gì?
 
Tôi lại càng thấy hoa mắt hơn, khẽ ôm đầu bằng cả hai tay và đứng chết lặng, ngơ ngẩn trước cỗ quan tài. Đúng lúc đó…
 
Chẳng ngờ, tôi bỗng nghe thấy tiếng Mei, “Hóa ra cậu không dị ứng với những thứ này sao, Sakakibara?”
 
 
 
4
 
 
 
Tất nhiên không phải búp bê trong quan tài lên tiếng, điều đó là không tưởng. Nhưng ảo giác ấy đã chiến thắng tôi trong chốc lát, và cũng chẳng đùa khi nói phổi tôi lúc đó muốn xẹp thêm lần nữa vì kinh hãi. Không chủ định mà giật lui một bước dài, mắt tôi vẫn dán chặt lên môi búp bê.
 
Thêm một lúc, tôi nghĩ mình có nghe thấy tiếng cười. Nhưng con búp bê vẫn không cử động.
 
“Tại sao…” Lại là giọng nói ban nãy, “Tại sao cậu ở đây?”
 
Chắc chắn là giọng Misaki Mei. Nó thực sự đang phát ra từ con búp bê trước mặt tôi.
 
Là ảo giác? Không thể đâu… Tôi buông hai tay xuống, lắc đầu quầy quậy. Cứ như vậy, tôi nhìn lại lần nữa.
 
Misaki thực sự xuất hiện, bước ra từ sau cỗ quan tài, cô vén tấm rèm đỏ sang bên, trầm mặc nhìn tôi.
 
Đối với tôi, cô giống như hiện thân đầy sống động của con búp bê phía trước, dù không mặc váy mà là đồng phục trường Bắc Yomi.
 
Tôi không khỏi thốt lên, “Làm sao cậu…”
 
“Tôi chẳng định trốn ở đây để dọa cậu đâu,” Mei nói, vẫn với giọng cụt ngủn. “Cậu mới là người vừa đến.”
 
Thế thì cậu làm cái quái gì ở nơi này chứ? Mà quan trọng hơn, làm sao cậu bỗng dưng hiện ra được? Ý tớ là, chậc…
 
Mei lặng lẽ bước lên. Cô không mang cặp. Tới trước cỗ quan tài, Mei liếc mắt nhìn con búp bê. “Cậu nghĩ nó giống tôi?”
 
“À… Ừ.”
 
“Quả có thế. Nhưng nó chỉ là một nửa của tôi. Thậm chí chưa đến một nửa.” Nói rồi, nhẹ nhàng đưa tay phải chạm lên mái tóc đỏ nâu của búp bê. Nhờ thế mắt trái bị che đi của nó hiện ra. Không phải băng gạc trắng như của Mei, mà là “con mắt xanh trống rỗng”, giống hệt bên mắt phải.
 
“Cậu làm gì ở đây?” Cuối cùng tôi cũng cất tiếng hỏi.
 
Mei vuốt ngón tay xuống khuôn mặt búp bê. “Đôi lúc tôi xuống đây. Vì tôi không dị ứng với nơi này.”
 
Thế thì giải thích được gì chứ. Nó còn chẳng hề trả lời cho câu hỏi vì sao cô lại tới cửa hàng này.
 
“Quan trọng hơn, tôi có chuyện muốn hỏi đấy.”
 
Xoay người và bỏ lại con búp bê sau lưng, Mei lại nhìn tôi. “Tại sao cậu đến đây, Sakakibara?”
 
“Ơ… Tớ chỉ…” Tôi nào dám trả lời là đã đi theo cô từ lúc tan trường đến giờ. “Tớ để ý thấy cửa tiệm này từ lâu. Tuần trước tớ đi ngang nên mới biết chỗ này. Thế nên hôm nay tớ đến xem.”
 
Biểu hiện của Mei không thay đổi mấy, cô chỉ gật đầu. “Một sự trùng hợp thú vị. Nhiều người nghĩ những hình nộm thế này rất đáng sợ. Cậu không sợ ư?”
 
“À thì…”
 
“Cậu đã nghĩ gì? Khi vào trong này?”
 
“Tớ chỉ thấy kinh ngạc. Khó diễn tả lắm, nhưng mọi thứ thật đẹp. Tựa hồ không tồn tại ở thế giới này, và khi nhìn chúng, lòng tớ cứ xao xuyến…”
 
Tôi cố nói thành lời, nhưng cũng chỉ đưa ra được mô tả thô thiển như trên. Mei không đáp lại. Cô đi đến một trong những ô lõm trên tường.
 
“Tôi thích bọn chúng nhất.” Cô nhìn thẳng vào bên trong. Búp bê ở đó là cặp song sinh kháu khỉnh liền bụng mà tôi trông thấy ban nãy. “Gương mặt chúng thật thanh thản. Sao chúng bình tĩnh được vậy ngay cả khi bị gắn làm một. Lạ quá!”
 
“Có lẽ chúng thấy yên tâm vì ở cùng nhau.”
 
Mei lẩm bẩm, “Chẳng thể nào,” và tiếp tục, “Nếu chúng bình tĩnh vì không bị gắn vào nhau, tôi có thể hiểu được.”
 
“Ừm… ừm.”
 
Thông thường thì phải ngược lại chứ? Dù nghĩ thế, tôi không nói gì thêm mà chỉ quan sát cô. Mei quay người, và tôi cứ ngỡ cô sẽ quay lại phía mình, nhưng cô chỉ hỏi, “Cậu vẫn luôn thắc mắc tại sao tôi đeo băng mắt, phải không?”
 
“Không, tớ…”
 
“Cho cậu xem nhé?”
 
“Hở?”
 
“Tôi sẽ cho cậu xem thứ phía sau băng mắt này.”
 
Vừa nói, Mei vừa đặt ngón tay trái lên miếng băng trắng. Ngón tay phải cô giữ sợi dây quấn quanh tai.
 
Hoàn toàn bị bất ngờ và bối rối đến cùng cực, tôi không thể rời mắt khỏi từng cử động của Mei. Tiếng nhạc nền đã dứt từ lúc nào. Giữa căn hầm kỳ quái chìm trong câm lặng và đầy những con búp bê vô thanh vô thức, tôi chợt có cảm giác Mei sẽ làm điều gì đó ngoài sức tưởng tượng, nhưng cũng nhanh chóng gạt ý tưởng ấy đi…
 
Chỉ trong giây lát.
 
Miếng băng bị gỡ xuống. Tôi thấy mắt trái của Mei và phải nuốt khan một hơi.
 
“Đ… Đó là…”
 
Một con mắt xanh, trống rỗng.
 
“Đó là mắt giả?”
 
Hệt như con búp bê trong cỗ quan tài.
 
Chất liệu hoàn toàn không giống đồng tử màu đen bên mắt phải đang nhìn tôi. Một con mắt xanh đang phát ra ánh sáng vô cơ lập lờ, giống thứ nằm trong hốc mắt của búp bê.
 
“Mắt trái của tôi là mắt búp bê,” Mei thì thầm.
 
“Nó thấy được thứ không nên thấy, nên tôi thường giấu nó đi.”
 
Vẫn là lời giải thích mập mờ. Tôi chẳng thể hiểu nổi ý nghĩa câu nói đó cũng như lý do khiến cô nói vậy. Đầu tôi lại quay mòng mòng. Hô hấp cũng mỗi lúc một khó khăn, có cảm giác như tim tôi đang đập thình thịch bên tai vậy. Trên hết, toàn thân tôi lạnh giá hơn trước.
 
“Cậu không sao chứ?”
 
Tôi chỉ lắc đầu thay cho câu trả lời. Mei lại nheo con mắt không phải của búp bê.
 
“Nếu không quen, hẳn sẽ thấy nơi này rất khó chịu.”
 
“Ý cậu là…”
 
“Những con búp bê…” Mei định nói gì, nhưng bỗng ngừng lời. Gán xong miếng gạc về chỗ cũ, cô tiếp tục.
 
“Những con búp bê trống rỗng.”
 
Trống rỗng, dưới ánh chiều tà của Yomi…
 
“Búp bê gắn liền với sự trống rỗng. Cơ thể, trái tim chúng đều rỗng… Một khoảng hư không. Sự trống rỗng đó giống như cái chết.” Mei tiếp tục, như đang vạch trần bí mật của thế tục. “Những thứ trống rỗng sẽ muốn tự lấp đầy bản thân chúng. Khi được đặt ở nơi khép kín thế này, dưới trạng thái cân bằng này… mọi thứ sẽ xấu đi. Đó là lý do. Lẽ nào cậu không thấy chúng bị hút ra khỏi người? Tất cả những gì bên trong cậu.”
 
“Ừm…”
 
“Một khi đã quen, cậu sẽ không để tâm nữa. Đi nào!” Nói rồi, Mei đi ngang qua tôi và bước lên cầu thang. “Lên trên có lẽ sẽ tốt hơn.”
 
 
5
 
 
Bà lão không còn ngồi ở chiếc bàn cạnh lối vào. Không rõ bà đi đâu? Nhà vệ sinh chăng? Âm nhạc cũng tắt ngúm, cửa tiệm (phòng trưng bày) âm u nay lại càng tĩnh lặng. Tĩnh lặng đến độ, có thể nói “cái chết” đang lởn vởn quanh đây. Mei chẳng tỏ ra ngần ngại, ngồi ngay xuống chiếc sofa nơi tôi để cặp. Cô không nói gì, và tôi cũng vậy, chỉ im lặng ngồi bên.
 
“Cậu hay đến đây à?” Tôi dè dặt hỏi.
 
“Có thể nói thế,” Mei đáp, như thể đang tự lẩm bẩm.
 
“Nhà cậu ở gần đây?”
 
“Cứ cho là thế.”
 
“Nơi này… tấm biển bên ngoài có ghi “Đôi mắt xanh trống rỗng…” Đấy là tên của cửa hàng, à không, phòng trưng bày à?”
 
Mei lặng lẽ gật đầu, tôi bèn hỏi dồn. “Còn ‘Studio M’ thì sao? Bên dưới có một tấm áp phích ghi như thế.”
 
“Ý nói tầng hai là xưởng làm búp bê.”
 
“Vậy là mấy con búp bê đều được chế tác ở đây?”
 
“Chỉ búp bê của Kirika thôi,” Mei bổ sung.
 
“Kirika?”
 
“Viết bằng chữ Hán thì Kiri là ‘sương mù’ và ka là ‘hoa quả’. Là tên người làm ra búp bê ở tầng trên.”
 
Cô nhắc tôi mới nhớ là mình đã thấy tên nghệ nhân này trên tấm bảng đặt trước một số búp bê trong phòng trưng bày. Hình như ở trên bức tranh sơn dầu treo tường nữa.
 
“Cả những con dưới tầng hầm?” Tôi đánh mắt xuống bậc thang phía sau. “Bọn chúng đều không có bảng tên.”
 
“Cũng do Kirika làm ra.”
 
“Cả búp bê trong quan tài?”
 
“Ừ.”
 
“Con búp bê đó… tại sao…” Tôi không thể không đặt câu hỏi này. “Tại sao trông nó giống cậu thế?”
 
“Ai mà biết,” Mei ra chiều khó hiểu và trả lời cho qua. Cô giả vờ không hiểu chăng? Ắt hẳn thế.
 
Tôi biết có lý do đằng sau. Tôi biết hiểu rõ nó là gì. Vậy mà…
 
Khẽ thở dài, tôi nhìn xuống chân. Còn rất nhiều điều tôi muốn hỏi. Nhưng nên hỏi thế nào mới phải?
 
Nên bắt đầu từ đâu? Chậc! Có suy tư thêm nữa cũng chẳng ích gì. Đây không phải dạng vấn đề tôi có thể tìm ra câu trả lời rồi xác nhận giải pháp tối ưu. Hạ quyết tâm, tôi lại nói. “Tớ từng hỏi việc này khi chúng ta ở trên sân thượng. Lần đầu tiên tớ gặp cậu ở thang máy bệnh viện, cậu có cầm theo vật gì đó. Có phải cũng là búp bê?”
 
Lần trước tôi hỏi, cô không trả lời. Nhưng hôm nay phản ứng của Mei lại khác. “Ừ, là búp bê.”
 
“Cậu bảo là muốn ‘chuyển’ nó đi đâu đó?”
 
“Chính xác.”
 
“Cậu xuống tầng hầm thứ hai, đúng không? Không phải là đến nhà xác chứ?”
 
Lúc này, ánh mắt Mei không nhìn tôi, như đang muốn lảng tránh điều gì. Sự câm lặng một lần nữa xâm chiếm không gian. Nếu câu trả lời là không, hẳn cô ấy đã chẳng do dự thế này. Tôi nghĩ vậy.
 
“Hôm đó… ngày 27 tháng Tư ấy. Tớ nghe nói một cô bé đã qua đời ở bệnh viện. Có phải cậu…”
 
Có lẽ do tác động của ánh đèn. Gương mặt Mei tái nhợt đi. Đôi môi mất huyết sắc run khẽ.
 
Ôi. Mei sắp biến thành búp bê, giống như thứ ở trong quan tài dưới kia. Ý nghĩ ngu ngốc ấy hiện lên trong đầu, khiến tim tôi thắt lại.
 
“Ưm…” Tôi lắp bắp tìm lời, không muốn câu chuyện bị gián đoạn. “À, ý tớ là…”
 
Theo những gì chị Mizuno nói với tôi vào thứ Bảy tuần trước… Cô gái chết trong bệnh viện hôm ấy tên là “Misaki” hoặc “Masaki”. Thế tức là sao? Có ẩn ý gì? Không quá khó để xâu chuỗi các thông tin, nhưng ngay cả như thế…
 
“Misaki này, cậu có… em gái, hay chị gái gì không?” Tôi đánh liều hỏi. Có một khoảng ngập ngừng, rồi Mei lắc đầu, vẫn im lặng, cặp mắt hướng đi nơi khác.
 
Bệnh nhân là con một, hẳn cha mẹ phải đau khổ lắm. Trong cuộc gọi lần trước, chị Mizuno đã nói thế.
 
Cô bé đã chết là con một. Mei thì không có chị hay em gái. Nhưng câu chuyện trên vẫn không có gì đáng gọi là mâu thuẫn. Nếu không phải chị em, người đó có thể là họ hàng của Mei, hoặc là… Rất nhiều khả năng hiện lên trong đầu tôi. Trường hợp cô gái tên là “Misaki” hay “Masaki” cũng vậy. Chắc chỉ là ngẫu nhiên, nhưng cũng có thể là điều tất yếu. Hoặc câu chuyện tôi nghe được có điểm sai sót…
 
“Thế sao cậu…” Đang định hỏi thêm, tôi vấp phải sự phản kháng ngay lập tức.
 
“Sao tôi biết chứ!” Mei nói, trừng mắt nhìn tôi. Con mắt đen nhạt, không phải con mắt búp bê xanh, mà không hiểu sao tựa hồ nhìn thấu suốt mọi thứ. Một cơn ớn lạnh chạy khắp thân thể làm tôi vô thức phải nhìn tránh đi, hai cánh tay sởn gai ốc, trong đầu như có hàng ngàn dòi bọ lúc nhúc, vừa bò vừa cọ sàn sạt vào nhau.
 
Gì thế này? Chuyện gì đang diễn ra? Tôi có phần luống cuống. Gắng điều hòa hơi thở, tôi đảo mắt nhìn lũ búp bê. Có cảm giác mắt của chúng đang đổ dồn vào tôi. Bà lão vẫn chưa trở lại bàn. Đột nhiên, tôi sực nhớ lại lời bà nói mười mấy phút trước. Có một câu trong cuộc đối thoại mà bây giờ tôi mới nhận ra… Ý bà là sao?
 
Đầu óc tôi rối tinh. Mọi chuyện khá… không, quá là hỗn loạn.
 
Hít một hơi thật sâu, tôi quay sang nhìn Mei. Dưới ánh đèn, chỉ trong chớp mắt, dáng người cô như chìm sâu vào màn đêm. Cảm giác khi tôi nhìn thấy Mei lần đầu trong lớp đã trở lại. Một “bóng đen”, vô hình vô dạng, tồn tại mà như không tồn tại…
 
“Chắc cậu còn rất nhiều điều muốn hỏi.”
 
“À, ừm…”
 
“Không phải sao?”
 
Câu hỏi trực diện của Mei khiến tôi phải vội nghĩ cách ứng phó. Bảng tên le lói trước ngực Mei lọt vào tầm mắt tôi. Chữ Misaki bằng mực đen viết trên tấm thẻ tím nhạt nhăn nhúm và bẩn thỉu… Nhắm chặt hai mắt vào rồi mở ra, tôi cố ổn định những cảm xúc đang chộn rộn trong lòng. “Từ lúc chuyển đến tới giờ, có rất nhiều điều làm tớ thấy lạ. Và… à, thế nên…”
 
“Tôi đã nhắc cậu cẩn thận, nhớ không?” Mei khẽ thở dài, những ngón tay chạy quanh rìa miếng băng gạc. “Tôi đã cảnh cáo cậu phải tránh xa tôi. Nhưng có lẽ quá trễ rồi.”
 
“Quá trễ? Cho chuyện gì?”
 
“Cậu vẫn không biết sao, Sakakibara?” Khẽ thở dài lần nữa, Mei đứng dậy khỏi sofa. “Có một câu chuyện.”
 
Cô bắt đầu kể, giọng nhỏ hơn. “Một câu chuyện từ rất lâu rồi… hai mươi sáu năm trước ở lớp 9-3, trường trung học Bắc Yomi. Chưa ai kể cho cậu nghe chuyện này, đúng không?”
 
 
6
 
 
“Chuyện về một học sinh lớp Chín của trường Bắc Yomi hai mươi sáu năm về trước. Người này ngay từ năm đầu tiên vào trung học cơ sở đã được mọi người yêu thích. Học lực tốt, giỏi thể thao, có năng khiếu âm nhạc và nghệ thuật… nhưng cũng không phải dạng học sinh chói lọi kiêu căng khiến người khác dễ sinh lòng ganh ghét. Bạn ấy cư xử rất tốt, thân thiện vừa đủ với mọi người. Vậy nên cả giáo viên lẫn học sinh đều quý mến bạn ấy.” Mei thầm thì kể lại câu chuyện, mắt dán cứng vào một chỗ, còn tôi thì ngồi im lặng nghe. “Thế rồi, học sinh này chuyển đến lớp 9-3. Học kỳ một vừa bắt đầu, ngay khi vừa tròn tuổi mười lăm, bạn ấy đột ngột qua đời. Có người kể rằng gia đình bạn ấy thiệt mạng do tai nạn máy bay, nhưng cũng có nhiều giả thuyết khác. Như là tai thiệt mạng do tai nạn máy bay, nhưng cũng có nhiều giả thuyết khác. Như là tai 3 cũng hoàn toàn bị sốc. Không thể nào, mình không tin… Tất cả mọi người đều chìm trong đau thương, thế rồi một người lên tiếng.”
 
Mei liếc sang, nhưng tôi vẫn lặng im. Tôi không biết phải nói gì.
 
“Bạn ấy chưa chết, họ nói.” Mei lẳng lặng tiếp tục. “Xem này, bạn ấy đang ở cùng chúng ta, một người chỉ vào bàn học của người bạn quá cố và bảo. Các cậu xem, bạn ấy đang ở kia, khỏe mạnh, ngay đó thôi… Và rồi, cậu biết sao không, lần lượt hết người này đến người khác tán thành. Câu nói ấy truyền đi khắp lớp như một chuỗi phản ứng. Không ai muốn tin sự thật. Không ai chấp nhận được rằng học sinh nổi tiếng nhất lớp đột ngột mất đi. Tôi nghĩ là chúng ta có thể thấu hiểu cảm giác của họ. Nhưng… vấn đề là, cả lớp 9-3 đã giữ chuyện đó mãi cho tới sau này.”
 
“Ý cậu là sao?” Từ lúc bắt đầu câu chuyện tới giờ tôi mới cất tiếng. “Chuyện đó là gì?”
 
“Mọi người trong lớp giả vờ rằng bạn ấy vẫn sống. Cả thầy chủ nhiệm cũng tham gia. Thầy bảo với họ. Đúng vậy. Đúng như các em nói, em ấy chưa chết. Ít nhất, em ấy vẫn sống như một phần của lớp ta. Kể từ nay, chúng ta sẽ cùng cố gắng học tập. Tất cả hãy cùng nhau tốt nghiệp nhé… Đại loại là thế.”
 
Chỉ còn năm cuối này, hy vọng cả lớp sẽ giúp đỡ nhau, cùng nhau cố gắng hết sức.
 
Không hiểu sao lời của người thầy hai mươi sáu năm trước qua tường thuật của Mei lại nghe như lời thầy Kubodera nói khi giới thiệu tôi trước lớp trong ngày đầu đến trường.
 
Để đến tháng Ba năm tới, mọi người trong lớp đều khỏe mạnh mà tốt nghiệp…
 
“Học sinh lớp 9-3 tiếp tục sinh hoạt như thường lệ cho đến hết khóa. Họ để nguyên bàn của người bạn quá cố, đôi khi còn đặt tay lên và trò chuyện cùng bạn ấy, hay cùng chơi đùa và cùng tan trường về. Tất nhiên đó chỉ là giả vờ. Tại lễ tốt nghiệp, hiệu trưởng còn đặc biệt giữ lại một ghế cho người học sinh đã khuất.”
 
“Chuyện đó có thật sao?” Tôi không nhịn được, xen ngang. “Không phải là truyền thuyết hay đồn thổi chứ?”
 
Mei không trả lời. Cô thản nhiên kể tiếp, “Sau lễ tốt nghiệp, mọi người cùng giáo viên chủ nhiệm chụp chung ảnh kỷ niệm trên lớp. Nhưng khi xem lại hình chụp, họ phát hiện một thứ.”
 
Mei dừng lại trong chốc lát, rồi nói, “Ở một góc của bức ảnh, họ thấy người học sinh đó, người lẽ ra không thể hiện diện. Mỉm cười như bao bạn học khác, nhưng gương mặt xanh xao, tái nhợt như xác chết.”
 
Ồ, quả nhiên là một chuyện ma quái. Chắc là nằm trong “Bảy điều kỳ bí” của trường Bắc Yomi. Có điều chi tiết hơn. Dù nghĩ như vậy, không hiểu sao tôi lại chẳng thể xem nó là chuyện đùa. Muốn cười cho qua, mà cơ má tôi lại khẽ giật giật.
 
Mei trông vẫn vô cảm như lúc mở đầu câu chuyện. Ánh mắt đăm chiêu, đôi môi mím chặt, bờ vai nâng lên hạ xuống vài lần, cuối cùng thấp giọng nói thêm, “Học sinh đó, người học sinh đã chết đó, tên là Misaki.”
 
Chuyện này thật ngoài dự đoán.
 
“Misaki?” Giọng tôi bất giác vống lên. “Đó là… họ? Hay là tên? Người ấy là nam hay nữ?”
 
“Thế nào nhỉ…”
 
Cả Mei cũng không rõ? Hay ngược lại, nhưng cô không muốn kể? Gương mặt trông nghiêng không chút biến đổi kia chẳng cho tôi hay điều gì.
 
“Có thể vài phiên bản đã kể tên người đó là ‘Masaki’, nhưng rất hiếm. Tôi thì nghĩ là ‘Misaki’.”
 
Hai mươi sáu năm trước… Tôi thầm tái hiện câu chuyện Mei vừa kể trong đầu. Hai mươi sáu năm trước, ở lớp 9-3 có một học sinh nổi tiếng tên là Misaki…
 
Đợi đã.
 
Để xem.
 
Tôi nhớ ra rồi.
 
Nếu đúng là hai mươi sáu năm trước, lúc đó mẹ (người mẹ đã mất mười lăm năm trước của tôi) chắc cũng đang học trung học? Có khi nào…
 
Không rõ Mei có nhận ra phản ứng khác lạ của tôi hay không. Cô ngả mình ra lưng tựa sofa nói tiếp, vẫn với giọng lạnh lùng, “Thật ra, câu chuyện này còn phần tiếp diễn.”
 
“Còn sao?”
 
“Có thể nói những gì tôi vừa kể chỉ là đoạn mở đầu.”
 
Thế rồi.
 
Tiếng chuông điện tử inh ỏi phát ra từ chiếc cặp tôi để trên sofa. Có cuộc gọi đến. Tôi quên để chế độ rung.
 
“Ồ, xin lỗi.” Tôi vội lục cặp lấy điện thoại. Màn hình hiện lên thông báo: Yomlyama – Ông bà ngoại.
 
“A lô, Koichi hả?” Giọng của bà. “Cháu đi đâu vậy? Trễ lắm rồi…”
 
“Ồ, xin lỗi bà. Trên đường về cháu có đi dạo một chút. Dạ, giờ cháu về ngay. Cháu thấy thế nào á? Rất khỏe. Bà đừng lo.”
 
Tôi luống cuống cúp máy, chợt nhận ra đoạn nhạc u ám vừa nãy lại được bật lên. Thôi nào, vừa nghĩ vậy tôi vừa ngoái đầu nhìn. Bà lão đã lại đứng ở cái bàn gần cửa, không hiểu quay về từ lúc nào. Bà đang nhìn ra chỗ tôi, nhưng tôi chẳng thể thấy rõ đôi mắt giấu sau cặp kính gọng đen dày cộp.
 
“Máy móc đáng ghét.” Mei nhìn xuống tay tôi, cau mày ra vẻ chán chường. “Ở đâu cũng liên lạc được, cũng tóm được.”
 
Nói rồi cô đứng dậy và lặng lẽ bước vào trong, phía cầu thang… Đợi đã? Mei định quay lại căn phòng dưới tầng hầm?
 
Mình có nên đuổi theo? Nhưng nếu chạy theo và không thấy cô… Này, mày đang bị sao vậy? Suy nghĩ thật ngu ngốc. Chuyện đó làm gì mà xảy ra được. Không đời nào. Vậy nên… nhưng…
 
Tôi còn đang do dự, bà lão đã cất giọng lè nhè. “Ta đóng cửa đây. Cháu về nhà đi.”