Chương 9: Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên

Truyền Kỳ Mạn Lục

Đăng vào: 2 năm trước

.

Trong năm Quang Thái (1) đời nhà Trần, người ở Hóa Châu (2) tên là Từ Thức, vì có phụ ấm được bổ làm Tri huyện Tiên Du (3). Bên cạnh huyện có một tòa chùa danh tiếng, trong chùa trồng một cây mẫu đơn, đến kỳ hoa nở thì người các nơi đến xem đông rộn rịp, thành một đám hội xem hoa tưng bừng lắm. Tháng 2 Bính tý (4), người ta thấy có cô con gái, tuổi độ 15, 16 phấn son điểm phớt, nhan sắc xinh đẹp tuyệt vời, đến hội ấy xem hoa. Cô gái vin một cành hoa, không may cành giòn mà gãy khấc, bị người coi hoa bắt giữ lại, ngày đã sắp tối vẫn không ai đến nhận. Từ Thức cũng có mặt ở đám hội, thấy vậy động lòng thương, nhân cởi tấm áo cừu gấm trắng, đưa vào tăng phòng để chuộc lỗi cho người con gái ấy. Mọi người đều khen quan huyện là một người hiền đức.
Song Từ Thức vốn tính hay rượu, thích đàn, ham thơ, mến cảnh, việc sổ sách bỏ ùn cả lại thường bị quan trên quở trách rằng:
– Thân phụ thầy làm đến Đại thần mà thầy không làm nổi một chức Tri huyện hay sao!
Từ than rằng:
– Ta không thể vì số lương năm đấu gạo đỏ mà buộc mình trong áng lợi danh. Âu là một mái chèo về, nước biếc non xanh vốn chẳng phụ gì ta đâu vậy.
Bèn cởi trả ấn tín, bỏ quan mà về. Vốn yêu cảnh hang động ở huyện Tống Sơn (5), nhân làm nhà tại đấy để ở. Thường dùng một thằng nhỏ đem một bầu rượu, một cây đàn đi theo, mình thì mang mấy quyển thơ của Đào Uyên Minh, (6) hễ gặp chỗ nào thích ý thì hý hửng ngả rượu ra uống. Phàm những nơi nước tú non kỳ như núi Chích Trợ, động Lục Vân, sông Lãi, cửa Nga (7), không đâu không từng có những thơ đề vịnh. Một hôm Từ Thức dậy sớm trông ra bể Thần Phù (8) ở phía ngoài xa vài chục dặm, thấy có đám mây ngũ sắc đùn đùn kết lại như một đóa hoa sen mọc lên, vội chèo thuyền ra thì thấy một trái núi rất đẹp. Từ kinh ngạc bảo lái thuyền rằng:
– Ta đã từng lênh đênh trên áng giang hồ, các thắng cảnh miền đông nam, không biết trái núi này từ đâu lại mọc ra trước mắt, ý giả là non tiên rụng xuống, vết thần hiện ra đây chăng? Sao trước không mà nay lại có?
Bèn buộc thuyền lên bờ thì thấy những vách đá cao vút nghìn trượng, sừng sững đứng thẳng, nếu không có cánh thì vị tất đã trèo lên thăm cảnh đó được. Nhân đề một luật thơ rằng:
Thiên chương bích thụ quải triêu đôn,
Hoa thảo nghênh nhân nhập động môn.
Nhiễu giản dĩ vô tăng thái dược,
Duyên lưu thặng hữu khách tầm nguyên.
Lữ du tư vị cầm tam lộng, Điếu đĩnh sinh nhai tửu nhất tôn.
Nghĩ hướng Vũ Lăng ngư tử vấn,
Tiền lai viễn cận chủng đào thôn.
Dịch:
Triêu dương bóng rải khắp ngày xanh,
Hoa cỏ cười tươi đón rước mình.
Hái thuốc nào đâu sư kẽ suối,
Tìm nguồn duy có khách bên ghềnh.
Lang thang đất lạ đàn ba khúc,
Nênh nổi thuyền câu rượu một bình.
Bến Vũ (9) chàng ngư, tìm thử hỏi,
Thôn Đào (9) chỉ hộ lối loanh quanh.
Đề xong, trông ngắm thẫn thờ, như có ý chờ đợi. Chợt thấy ở trên vách đá bỗng nứt toác ra một cái hang, hình tròn mà rộng độ một trượng. Vén áo đi vào, vừa được mấy bước thì cửa hang đã đóng sập lại tối tăm mù mịt như sa vào cái vực đen tối. Bụng nghĩ không còn thể nào sống được nữa, lấy tay sờ soạng lối rêu, nhận thấy có một cái khe nhỏ, quằn quèo như cái ruột dê vậy. Đi mò độ hơn một dặm thì thấy có đường đi ngoi lên. Bám bíu trèo lên thì mỗi bước mỗi thấy rộng rãi. Lên đến ngọn núi thì bầu trời sáng sủa. Chung quanh toàn là những lâu đài nguy nga, mây xanh ráng đỏ, bám ở lan can, cỏ lạ hoa kỳ, nở đầy trước cửa. Sinh nghĩ nếu không phải là chỗ đền đài thờ phụng, tất là cái xóm của những bậc lánh đời, như những nơi núi Thứu nguồn Đào (9) chẳng hạn. Rồi chợt thấy có hai người con gái áo xanh bảo nhau rằng:
– Lang quân nhà ta đã đến!
Đoạn họ vội chạy vào báo tin, một lúc đi ra nói rằng:
– Phu nhân chúng tôi sai mời chàng vào chơi.
Sinh đi theo họ vào, vòng quanh một bức tường gấm, vào trong một khung cửa son, thấy những tòa cung điện bằng bạc đứng sững, có những tấm biển đề: “Điện Quỳnh hư”, “Gác Dao Quang”. Trên gác có bà tiên áo trắng, ngồi trên một cái giường thất bảo bên cạnh đặt một chiếc giường nhỏ bằng gỗ đàn hương, mời Sinh lên ngồi và bảo rằng:
– Tính hiếu kỳ của chàng đã thành chứng nghiện. Sự vui sướng trong một chuyến đi chơi này, kể cũng đã thỏa nguyện bình sinh. Nhưng mối duyên gặp gỡ chàng có còn nhớ gì không?
Từ thưa rằng:
– Tôi là một kẻ dật sĩ ở Tống Sơn. Một cánh buồm gió, một lá thuyền nan, phóng lãng giang hồ thích đâu đến đấy. Nào có biết chốn này lại có Tử phủ Thanh đô! Lần mò lên được tới đây, chẳng khác như mình đã mọc cánh mà bay lên đến cõi tiên vậy. Song lòng trần mờ tối, chưa biết tiền đồ ra làm sao. Dám xin chỉ bảo rõ ràng cho chúng tôi được hiểu.
Bà tiên cười bảo:
– Chàng biết sao được. Đây là núi Phù Lai, một động tiên thứ 6 trong 36 động, bồng bềnh ở ngoài bể cả, dưới không có bám bíu, như hai núi La Phù tan hợp theo với sóng rợn, mà tôi tức là địa tiên ở Nam nhạc là Ngụy phu nhân. Vì thấy chàng là người cao nghĩa sẵn lòng cứu giúp sự nguy khốn cho người, nên mới dám làm phiền mời chàng đến đây.
Bà tiên nhân đưa mắt cho con hầu để bảo gọi một cô tiên ra, Từ liếc nhìn trộm, chính là người bẻ gãy cành hoa ngày trước. Bà tiên trỏ bảo rằng:
– Đứa con tôi đây tên là Giáng Hương, ngày trước gặp phải cái nạn trong khi đi xem hoa, nhờ chàng cứu gỡ, ơn ấy khôn quên, nay muốn cho nó kết duyên để báo đền ơn trước.
Bèn ngay đêm ấy đốt đèn mỡ phượng, rải đệm vàng rồng, để hai người làm lễ giao bái. Ngày hôm sau quần tiên đến mừng, có người mặc áo gấm cưỡi con ly từ đàng bắc xuống, có người bận xiêm lụa cưỡi rồng từ phía nam lên, có người đi kiệu ngọc, có người cưỡi xe gió, đồng thời lại họp. Tiệc yến đặt ở từng thượng trên gác Dao quang, buông rèm câu (10) ngọc, rủ trướng móc vàng, phía trước đặt một cái ghế bành bằng ngọc lưu ly mà để không. Quần tiên vái chào nhau cùng ngồi ở những ghế bên tả; Từ Thức thì ngồi ở cái giường bên hữu. Ngồi xong, có tiếng truyền hô là Kim tiên (11) đã đến, mọi người đều bước xuống đón cúi lạy chào. Đoạn rồi lên gác tấu nhạc. Tiệc bày mâm bằng mã não, đĩa bằng ngọc thạch, các món ăn đều rất kỳ lạ, lại có những thứ rượu kim tương, ngọc lễ, mùi hương đưa lên thơm nức, dưới trần không bao giờ có được cái của quý như vậy. Người áo gấm trắng nói:
– Chúng tôi chơi ở chốn này mới tám vạn năm, mà bể Nam đã ba lần tung bụi. Nay chàng từ xa tới đây, không vì tiên phàm mà cách trở, ba sinh hương lửa, tưởng cũng không phụ, đừng nên cho chuyện thần tiên là câu chuyện hoang đường.
Rồi có những người trẻ nhỏ, chia ra từng lớp mà múa điệu Lăng Ba. Đoạn, phu nhân mời tiệc. Giáng Hương rót rượu. Người bận xiêm lụa nói đùa rằng:
– Nương tử hôm nay mầu da hồng hào, chứ không khô gầy như trước nữa. Người ta bảo ngọc nữ không chồng, câu ấy hỏi có tin được không?
Quần tiên đều cười, duy người mặc áo xanh buồn rầu không vui mà nói rằng:
– Mối duyên của cô em đây, thật cũng là tốt đẹp. Song nghĩ cái giá băng ngọc ở trên mây, mà đi kết mối tóc tơ ở cõi thế, vạn nhất tiếng tăm vỡ lở, thiên hạ chê cười, quần tiên chúng ta e không khỏi mang tiếng lây được.
Bà Kim tiên nói:
– Ta ở trong chốn lâu thành trên trời, chầu hầu cạnh đức Thượng đế, mênh mang trần hải, chưa từng đặt bước xuống bao giờ. Thế mà những kẻ hiếu sự họ còn bịa ra, nào bảo Dao trì hội kiến ở đời Chu (12), thanh điểu truyền tin ở đời Hán (13), ta còn thế, huống chi là lũ các nàng ư ? Song tân lang ngồi đây, ta không nên bàn phiếm những câu chuyện khác làm rối lòng dạ người ta.
Bà phu nhân nói:
– Tôi nghe tiên khá gặp chứ khôn tìm, đạo không tu mà tự đến. Những cuộc gặp gỡ hiếm lạ, đời nào mà không có: như đền Bạc hậu (14), như quán Cao đường (15), như thần Lạc phố lướt sóng (16), như nàng Giang Phi cởi ngọc (17), như Lộng Ngọc lấy Tiêu Sử (18), như Thái Loan gặp Văn Tiêu (19), như Lan Hương gặp Trương Thạc (20). Bao nhiêu những chuyện cũ còn sờ sờ đó; nếu thế này mà bị chê cười thì đã có những người trước ấy họ chịu đỡ tiếng cười cho mình.
Mọi người cùng phá lên cười rất vui vẻ. Rồi đó mặt trời gác núi, các khách khứa đều giải tán cả. Từ đùa bảo Giáng Hương rằng:
– Thì ra tất cả các cõi trời đều có chuyện phối ngẫu cả. Cho nên ả Chức Nữ lấy chàng Ngưu Lang, nàng Thượng Nguyên tìm chàng Phong Trắc (21), Tăng Nhụ có bài ký Chu Tần (22), Quần Ngọc có bài thơ Hoàng lăng (23), cảnh khác nhưng tình cũng giống nhau, nghìn xưa vẫn như thế cả. Nay quần tiên ai về chỗ nấy, sống trong cảnh quạnh quẽ cô liêu, đó là vì lòng vật dục không nẩy sinh, hay là cũng có nhưng phải gượng đè nén?
Nàng đổi sắc mặt nói:
– Mấy người ấy là những cái khí huyền nguyên, những cái tính chân nhất, thân hầu cửa tía, tên ghi đền vàng, ở thì ở phủ thanh hư, chơi thì chơi miền sung mạc, không cần gạn mà lòng tự trong, không cần lấp mà đục vẫn lặng. Không như thiếp bảy tình chưa sạch, trăm cảm dễ sinh, hình ở phủ tía nhưng lụy vướng duyên trần, thân ở đền quỳnh mà lòng theo cõi dục; chàng đừng nên nhân một mình thiếp mà cho tất cả quần tiên đều thế.
Từ nói:
– Nếu thế thì em còn thua các tiên kia xa lắm.
Vợ chồng cùng vỗ tay cả cười.
Chỗ Giáng Hương có bức bình phong trắng. Từ thường đề thơ lên trên rằng:
Nhãn để yên hà cước để vân,
Thanh quang sái sái bức Tam Thần.
Tùng hoa bán lão hương phong động,
Môi dẫn Thương Lương điếu đĩnh nhân.
Dịch:
Khói rợp mây che khắp bốn trời,
Non Thần trong sáng đó là nơi.
Hoa thông theo gió đưa hương ngát,
Dắt dẫn thuyền câu khách một người.
II
Thu phong nhất dạ nguyệt man san,
Liên quyển hoàng hoa nhập ỷ lan.
Tửu lực khốn nhân thi tứ khổ,
Ngâm hào túy các bích lang can.
Dịch:
Một đêm gió thổi nguyệt đầy non,
Rèm cuộn hoa vàng lọt cửa son.
Rượu mệt mê say người nặng trĩu,
Mượn đem bút trúc gửi thi hồn.
III
Bảo áp ngưng hàn hoán túc hương,
Biệt tài tân phổ lý nghê thường.
Từ thành bất cảm cao thanh đạo,
Kinh khởi âm lai phong vũ trường.
Dịch:
Đốt lại lò trầm nhóm lại hương,
Đắn đo đổi mới khúc nghê thường,
Bài thành không dám cất cao tiếng,
E gió mưa về ẩm một phương.
IV
Hồng Hà đối khởi Xích thành tiêu,
Sáp hán cung tường tỏa tịch liệu,
Tinh đẩu nhiễu lan thiên nhất ác,
Dạ thâm Tần nữ học xuy tiêu.
Dịch:
Ráng đỏ đùn lên tựa gấm thêu,
Cung tường cao vút vắng teo teo,
Trăng sao dường mọc quanh bên mái,
Tần nữ đêm dài học thổi tiêu. (24)
V
Thương mang vân ngoại đoản trường chu,
Mân Quế kiền khôn nhật dạ phù,
Nhất điểu mộ xuân phi bất tận,
Liên không đạm tảo bích du du.
Dịch:
Ngoài mây thấp thoáng bóng tiên châu,
Mận, Quế (25) phương trời ngút tận đâu.
Xuân muộn con chim bay lạc lõng,
Vòm không quang sạch biếc làu làu.
VI
Khước hàn liêm phóng nguyệt trùng trùng,
Khiếp đối suy nhan bả kính dung.
Cách trúc hoán lai tiên chẩm mộng,
Ngũ canh vô nại viễn sơn chung.
Dịch:
Rèm buông cản lạnh nguyệt linh lung,
Gương võ vàng soi luống thẹn thùng.
Cách trúc gối tiên vừa khẽ chợp,
Non xa đưa rộn tiếng chuông đồng.
VII
Phù phù thụy ái nhiễu kim khuê,
Phương trượng huề nam Nhược thủy tê.
Xướng bãi đà canh thiên dục thự,
Hương tâm hà xứ nhất thanh kê.
Dịch:
Khí lành quanh quất phủ buồng xuân,
Phương trượng (26) non xa, Nhược thủy (27) gần
Dứt tiếng canh đà (28) trời sắp sáng,
Lòng quê theo rõi áng mây Tần.
VIII
Yên lam như kế liễu như điền,
Tỏa thát tình khuy hải bạc thuyền.
Vũ khách khứ thời vô xứ mịch,
Bộ hư thanh ngoại bích liên thiên.
Dịch:
Hơi lam: mái tóc, liễu: hoa cài,
Thuyền bể xa trông thấp thoáng ngoài.
Đạo sĩ một đi tìm khó thấy,
Trong không tản mác tiếng ngân dài.
IX
Tứ diện ba đào nhất kế sơn,
Dạ lai hà xứ mộng hương quan.
Mang mang trần giới hồi đầu viễn,
Thân tại hồng vân bích thủy gian.
Dịch:
Sóng nước bao quanh núi một vùng,
Mộng về quê cũ lối không thông.
Mây vàng nước biếc thân nương đậu,
Trần giới xa coi ngút mịt mùng.
X
Đào hoa nhiễu giản xuất Thiên thai,
ủy địa tàn hồng bán lục đài.
Khước tiếu Lưu lang khinh xuất động,
Lâm phong kỷ bả ngọc thư khai.
Dịch:
Mặt suối hoa đào lặng lẽ trôi,
Rêu trùm sắc thắm uổng pha phôi.
Lưu Lang biệt động sao khờ mấy,
Thư ngọc buồn tênh giở mấy hồi. (29)
Như Từ, từ khi bỏ nhà đi thấm thoát đã được một năm, ao sen đã đổi thay mầu biếc. Những đêm gió thổi, những sáng sương sa, bóng trăng sáng dòm qua cửa sổ, tiếng thủy triều nghe vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một mối buồn bâng khuâng, quấy nhiễu khiến không sao ngủ được. Một hôm trông ra bể, thấy một chiếc tàu buôn đi về phương Nam. Từ trỏ bảo Giáng Hương rằng:
– Nhà tôi đi về phía kia kìa, song biển cả trời xa, chẳng biết là ở tận đâu.
Rồi nhân lúc rỗi, chàng nói với nàng rằng:
– Tôi bước khách bơ vơ, lòng quê bịn rịn, lệ hoa thánh thót, lòng cỏ héo hon, dám xin thể tình mà cho được tạm về, chẳng hay ý nàng nghĩ thế nào?
Giáng Hương bùi ngùi không nỡ dứt. Từ lang nói:
– Tôi xin hẹn trong một thời kỳ bao nhiêu lâu, để về cho bạn bè gặp mặt và thu xếp việc nhà cho yên, sẽ lại đến đây để với nàng cùng già ở chốn làng mây bến nước.
Giáng Hương khóc mà nói:
– Thiếp chẳng dám vì tình phu phụ mà ngăn cản mối lòng quê hương của chàng. Song cõi trần nhỏ hẹp, kiếp trần ngắn ngủi, dù nay chàng về nhưng chỉ e liễu sân hoa vườn, không còn đâu cảnh tượng như ngày trước nữa.
Nàng nhân thưa với phu nhân, phu nhân nói:
– Không ngờ chàng lại mắc mớ vì mối lòng trần như vậy.
Nhân cho một cỗ xe cẩm vân để chàng cưỡi về. Nàng cũng đưa cho chàng một bức thư viết vào lụa mà nói:
– Ngày khác trông thấy vật này, xin đừng quên mối tình ngày cũ.
Rồi tràn nước mắt mà chia biệt.
Chàng đi chỉ thoắt chốc đã về đến nhà, thì thấy vật đổi sao dời, thành quách nhân gian, hết thảy đều không như trước nữa, duy có những cảnh núi khe là vẫn không thay đổi sắc biếc mầu xanh thủa nọ. Bèn đem tên họ mình hỏi thăm những người già cả thì thấy có người nói:
– Thuở bé tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi mất đến nay đã hơn 80 năm, nay đã là năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh là đời ông vua thứ ba của triều Lê rồi. (30)
Chàng bấy giờ mới hậm hực bùi ngùi; muốn lại lên xe mây để đi, nhưng xe đã hóa làm một con chim loan mà bay mất. Mở thư ra đọc, thấy có câu: “Kết lứa phượng ở trong mây, duyên xưa đã hết, tìm non tiên ở trên bể dịp khác còn đâu!” mới biết là Giáng Hương đã nói trước với mình những lời ly biệt. Chàng bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào núi Hoành Sơn, (30) rồi sau không biết đi đâu mất.
Lời bình:
Than ôi, nói chuyện quái sợ loạn chuyện thường, cho nên thánh hiền không nói. Nhưng việc Từ Thức lấy vợ tiên, cho là thực không ư ? Chưa hẳn là không; Cho là thực có ư? Chưa hẳn là có. Có không lờ mờ, câu chuyện tựa hồ quái đản. Nhưng có âm đức thì tất có dương báo, cũng là lẽ thường. Những bậc quân tử sau này khi để mắt đến sẽ liệu mà thêm bớt, bỏ chỗ quái mà để chỗ thường thì phỏng có gì là hại.
Chú thích:
* Nguyên văn: Từ Thức tiên hôn lục.
(1) Quang Thái: niên hiệu Trần Thuận Tông, từ 1388-1398.
(2) Hóa châu: Thanh Hóa ngày nay (theo nguyên chú Hóa Châu là châu Thanh Hóa cổ).
(3) Tiên Du: nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
(4) Năm Bính Tý: dưới thời Thuận Tông là năm 1396.
(5) Huyện Tống Sơn: khoảng đời Trần là vùng đất tương đương với miền bắc huyện Nga Sơn và miền đông bắc huyện Hà Trung; thời Lê là vùng đất huyện Hà Trung, Thanh Hóa ngày nay.
(6) Đào Uyên Minh: năm sinh có ba thuyết: 365; 372; 376, mất 427, tên là Tiềm, là thi gia đời Đông Tấn. Từng làm Huyện lệnh Bành Trạch, sau vì không chịu luồn cúi nên treo ấn từ quan. Ông có câu nói nổi tiếng: “Lẽ nào vì năm đấu gạo lương mà phải khom lưng!”. Thơ văn của ông giản phác mà tinh luyện, có phong cách riêng, phần lớn thể hiện tư tưởng ẩn dật.
(7) Núi Chích Trợ… cửa Nga: đều là những thắng cảnh của Thanh Hóa.
(8) Thần Phù: Theo Lịch triều hiến chương loại chí, phần Dư địa chí: cửa Thần Phù là cửa sông ra bể, thuộc huyện Nga Sơn, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa.
(9) Núi Thứu: xưa Tây vực có núi Thứu Lĩnh, vì núi hình chim Thứu nên thành tên. Nguồn đào: theo Đào hoa nguyên ký của Đào Tiềm thì đời Tấn có một người đánh cá ở Vũ Lăng đi thuyền lạc vào rừng đào. ở đấy người đánh cá gặp một thôn xóm rất yên bình, hỏi thì là những người lánh nạn nhà Tần, họ không biết gì về thời cuộc hiện tại. Người đánh cá ở mấy hôm rồi ra về. Câu chuyện đến tai viên quan quận, ông ta muốn người đánh cá đưa đi, nhưng khi trở lại, người đánh cá không tìm được dấu vết gì nữa. Sau những từ Vũ Lăng, nguồn Đào, thôn đào vừa chỉ nơi ẩn dật cũng vừa chỉ cõi tiên.
(10) Câu: cái móc để vén rèm, màn.
(11) Kim tiên: tức Tây Vương mẫu.
(12) Sách Loại tụ nói vua Chu Mục Vương ham thích thần tiên rồi gặp bà Vương mẫu ở Dao Trì.
(13) Lời chua ở sách Đường thi, nói vua Hán Vũ Đế ngồi ở điện Thừa Hoa, chợt có hai con chim xanh từ phương tây bay lại, đậu ở trước điện. Vua hỏi Đông Phương Sóc. Sóc nói: “Đó là bà Vương mẫu sắp đến chơi đấy”. Một lát quả nhiên bà Vương mẫu đến, có hai người thị nữ áo xanh tức là hai con chim xanh lúc trước.
(14) Chuyện Ngưu Tăng Nhụ đời Đường gặp các nàng tiên ở đền Bạc thái hậu; xem thêm chú thích 5 Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây.
(15) Sở vương chơi ở quán Cao Đường, gặp một nàng thần nữ, cùng chung chăn gối. Xem thêm chú thích 11 Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu.
(16) Thần nữ ở Lạc Phố tên là Bật Phi, con gái vua Phục Hy. Sách Quần ngọc có chép chuyện Trần Tư Vương gặp thần nữ ở Lạc Phố.
(17) Hai nàng tiên Giáng Phi chơi ở bên sông gặp Trịnh Giao Phủ, cởi ngọc minh châu mà tặng cho. Trịnh nhận được ngọc đi được mấy chục bước thì ngọc không còn nữa mà những nàng kia cũng biến mất.
(18) Chàng Tiêu Sử giỏi thổi ống tiêu, vua Tần Mục Công đem con gái là Lộng Ngọc gả cho. Chàng dạy nàng thổi tiêu, chim phượng hoàng nghe tiếng bay đến. Sau vợ chồng cùng cưỡi phượng mà bay lên trời.
(19) Chàng Văn Tiêu gặp nàng tiên Thái Loan ở núi Tây tại đất Chung Lăng, hai người lấy nhau.
(20) Ngọc nữ Đỗ Lan Hương lấy Trương Thạc. Sau nàng về trời, Trương Thạc rất thương nhớ.
(21) Phong Trắc đọc sách ở trong núi sâu, bà tiên Thượng Nguyên phu nhân đêm đến ve vãn (xuất ở sách Thiên hạ dị kỷ).
(22) Chuyện Ngưu Tăng Nhu. Xem chú thích 5 Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây.
(23) Lý Quần Ngọc qua miếu Nhị phi ở Sầm Dương có đề một bài thơ câu đầu là: “Hoàng Lăng miếu tiền xuân dĩ không” chợt có hai người con gái hiện lên tự xưng là hai nàng Nga Hoàng, Nữ Anh hẹn sau hai năm sẽ cùng Lý gặp gỡ.
(24) Tần nữ: xem chú thích 18 cùng truyện.
(25) Mân, Quế: nguyên chú: Mân thuộc vùng đất Bách Việt giáp với Ngao Sơn biển Đông; Quế là Quế Châu, Quảng Tây. Ngày nay Mân là tỉnh Phúc Kiến.
(26) Phương trượng: tăng phòng. Nguyên do là Vương Huyền Sách đời Đường sang sứ Tây vực, vào chỗ ở của nhà sư Duy Ma, thấy căn buồng của sư vuông vắn, mỗi bề mười hốt, bèn gọi là phương trượng.
(27) Nhược thủy: theo Sơn hải kinh, là một dòng sông ở vùng cực tây của Trung Quốc, sức nước rất yếu, dù một hạt cải cũng không thể nổi trên mặt nước: tương truyền là nơi tiên ở.
(28) Đà: tên một giống cá có chân, dài vài trượng, da bền có thể bưng trống được; tiếng kêu rất vang, mỗi lần kêu rất đúng với một trống canh.
(29) Bài thơ này lấy ý từ câu chuyện Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai. Đời Hán, Lưu Thần, Nguyễn Triệu vào núi hái thuốc. Hai chàng đi mãi lạc vào Thiên Thai, gặp tiên nữ, lấy làm vợ. Được một thời gian, nhớ nhà đòi về, tiên nữ tiễn đưa đến cửa động. Lưu Nguyễn về đến nhà thì đã qua bảy đời, bạn bè họ hàng không còn ai, hai người muốn trở lại nơi cũ nhưng không tìm được lối xưa nữa. Nhà thơ Tào Đường (đời Đường) có năm bài thơ “kể” chuyện này rất được nhiều người ưa thích.
(30) Năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh: Diên Ninh là niên hiệu của Lê Nhân Tông từ 1454 đến 1459; năm thứ 5 là: 1458.