Chương 15: Bản báo cáo nghiên cứu của giáo sư Owen

Thánh Tuyền Tầm Tung [Ma Thổi Đèn]

Đăng vào: 2 năm trước

.

Mấy người chúng tôi đang tìm cách giải một câu đố hóc búa trong phòng làm việc, cậu cả nhà họ Vương đột nhiên cầm súng áp giải Mũ Sắt Đen vào. Y diễu võ dương oai nói: “Tên Quỷ tây dương này quả thật là xảo quyệt! Hắn ra lệnh cho đám thuộc hạ rút quân, còn bản thân định tìm cơ hội lẻn vào từ cửa sau. Rất may là đã bị cháu bắt được.” Vương Phổ Nguyên vớ lấy chén trà đập vỡ tan: “Đồ toi cơm, giờ hắn đã đạt mục đích vào được đây, ngươi bắt hay không bắt có gì là khác nhau!”

Dù có thế nào cậu cả Vương cũng không tài nào ngờ được, mình thông minh quá hóa đần, bị ông nội chửi ầm lên, bao nhiêu uy phong lúc trước đều mất sạch, ngồi riêng một góc gặm nhấm nỗi bực bội.

Mặc dù chưa hiểu biết quá nhiều về Mũ Sắt Đen, nhưng tôi cảm thấy anh ta sẽ không dại dột tự chui đầu vào lưới. Có thể nói, anh ta cố ý làm như vậy là để bị bắt, mục đích là vào trong này gặp mặt chúng tôi mà thôi.

Tôi nói với anh ta: “Thời điểm xảy ra vụ hoả hoạn đêm qua, chúng tôi đang làm khách ở nông trường của ông chủ Vương, có không dưới hai mươi người có thể làm chứng. Mãi sáng hôm nay chúng tôi mới quay về nội thành. Tôi thực sự muốn biết, cảnh sát có quyền bắt người bừa bãi như thế sao.”

Mũ Sắt Đen xua tay với tôi, nói: “Thực sự xin lỗi anh Hồ, là thuộc hạ của tôi không làm tròn trách nhiệm, trong tình huống chưa xác định rõ ràng đã tự ý nổ súng. Chúng tôi chỉ muốn đối chứng với các anh, thực sự không có ý định làm hại hai người.”

Tôi nghĩ bụng, ngươi nói dối cứ như cuội. Chẳng lẽ đám ông lớn các ngươi ăn no rỗi việc, kéo cả một đám đông mang theo súng thật đạn thật, cắm chốt ở cửa “Nhất Nguyên Trai” vào giữa nửa đêm chỉ là nhằm mục đích kiếm hai anh em chúng ta tâm sự việc nhà?

Tần Bốn Mắt hắng giọng, nói với anh ta: “Thời điểm các anh xông vào tiệm khi ấy, cung cách hành động có như anh nói đâu, rõ ràng là lục soát cửa tiệm đòi bắt người, hết sức hống hách.”

Mũ Sắt Đen tự biết mình đuối lý, đành phải thành thật khai báo: “Lúc trước chúng tôi đã quá mức võ đoán. Băng ghi hình lúc viện bảo tàng xảy ra hỏa hoạn đêm qua đã được xem xét, các anh không hề xuất hiện ở đó vào khoảng thời gian này. Tôi nghĩ tất cả chỉ là hiểu lầm.”

Tuyền béo rống lên: “Hiểu lầm? Cậu đây bị các ngươi truy đuổi chạy như vịt khắp cả nước Mỹ, nghĩ cả một buổi ngươi chỉ nhổ ra có một câu ‘hiểu lầm’. Nghĩ mới hay làm sao, hôm nay thằng cháu nhà ngươi không giải thích cho rõ ràng mọi việc, cậu béo đây đảm bảo ngươi sẽ lành lặn đi vào què quặt đi ra!”

Nhìn thấy cảnh sát Mỹ, Tưởng Bình run lên cầm cập, sợ chúng tôi sẽ khai gã ra. Không phải là tôi không có ý định giao nộp gã cho Mũ Sắt Đen ngay tại chỗ, mà chỉ vì nơi đây là địa bàn của lão ma cô, hơn nữa Tưởng Bình đã bị lão mua chuộc. Đến lúc đó, chẳng may lão ma cô muốn bảo vệ gã, đám người có liên can chúng tôi đương nhiên sẽ biến thành đối tượng phải diệt khẩu, đặc biệt là Mũ Sắt Đen – người ngay từ đầu đã đứng ở phía đối lập. Tôi đoán có lẽ chẳng tới lượt Tuyền béo ra tay, anh ta đã bị lão già kia âm thầm xử lý sạch sẽ.

Mũ Sắt Đen quả thực không hề để ý tới trên hiện trường có một xác ướp Ai Cập. Anh ta kéo khóa áo xuống, móc từ trong ngực áo ra một gói tài liệu được bọc kín bằng ni lông, nói: “Những tài liệu này đã được tìm thấy ở hiện trường vụ hoả hoạn. Chúng tôi có lý do để khẳng định, giáo sư Owen bị sát hại trong lúc đang tiến hành làm báo cáo về vụ mất trộm, Trong báo cáo khám nghiệm tử thi đã nói rõ, ông ta bị sát hại trước khi vụ hoả hoạn xảy ra, nguyên nhân chết giống hệt như nhân viên bảo vệ ở nhà kho ngày hôm trước, bị kẻ sát nhân dùng vũ khí sắc bén cắt đứt yết hầu. Thời điểm xảy ra hỏa hoạn có lẽ là tầm hai giờ sáng. Căn cứ vào sổ ghi chép tên người ra vào ngày hôm ấy, ngoài giáo sư Owen, đêm hôm đó cô Shirley cũng làm việc muộn trong phòng nghiên cứu. Chúng tôi đã phát hiện dấu hiệu xảy ra đánh nhau tại hiện trường, nhưng không hề tìm thấy thi thể của cô, cơ bản có thể loại trừ khả năng đã bị giết hại. Thế nhưng, đến giờ vẫn chưa có bất cứ tin tức nào về cô Shirley, chúng tôi đành phải tạm thời kết luận, cô ấy không may đã bị hung thủ bắt cóc.”

Mũ Sắt Đen không hiểu rõ về Shirley Dương, cho nên anh ta mới phán đoán sai lầm tình huống khi ấy, cho rằng một người con gái yếu ớt trói gà không chặt như cô nhất định đã bị kẻ thủ ác khống chế làm con tin, bắt mang đi. Nhưng tôi và Tuyền béo đều biết rõ, bản lĩnh của Shirley Dương tuyệt đối không thể miêu tả bằng đôi ba câu. Cho dù là tố chất thân thể hay là năng lực ứng biến khi đột ngột gặp phải sự cố, cả hai phương diện này đều hơn xa người bình thường. Bắt sống hơn nữa lại còn im hơi lặng tiếng đưa cô ra khỏi viện bảo tàng, gần như là việc không thể làm được.

Căn cứ vào hiểu biết tường tận về Shirley Dương của tôi, khi xảy ra vụ án, cô nhất định đã tìm mọi cách bảo vệ giáo sư Owen, sau đó bám riết theo hung thủ, hiện giờ hoàn toàn không có thời gian liên hệ với bất cứ một ai. Nếu không, chí ít ra cô cũng sẽ phải tìm cách nào đó để báo bình an cho tôi mới đúng.

Mũ Sắt Đen thuật lại xong, Tần Bốn Mắt tỏ vẻ lo lắng, nói: “Không có tin tức trong thời gian dài như vậy, liệu cô Shirley có bị. . .”

Tôi lập tức cắt ngang: “Cô ấy không sao đâu. Giờ việc chúng ta cần làm là truy đuổi hung thủ, chứ không phải ngồi chết dí ở đây suy đoán lung tung. Anh Robert, chỗ tư liệu đó anh có thể cho phép chúng tôi mở ra xem một lượt hay không?”

Mũ Sắt Đen còn đang tỏ vẻ lưỡng lự, Ma Cô Trẻ đã búng đầu lọc thuốc lá, giật lấy cái gói, lột phắt lớp nhựa nilon bọc ở bên ngoài ra. Mũ Sắt Đen vừa định đoạt lại thì bị Đầu Trọc đấm một cú vào giữa bụng, sụm xuống sàn, đau đến mức quằn quại. Tôi thật sự không thể đứng bàng quan, bèn đỡ Mũ Sắt Đen dậy, nói: “Ông chủ Vương, tốt xấu gì anh ta cũng là người ăn lương nhà nước, cách giải quyết thế này của các vị thật sự là khinh người quá đáng.”

Ma Cô Trẻ vừa đưa tài liệu cho ông nội mình xem vừa nói: “Hồ Bát Nhất, cách làm người của anh bạn thật sự chẳng ra sao, gió chiều nào nghiêng chiều ấy. Lúc nãy ở bên dưới, nếu không phải chúng ta ra tay, anh và người anh em của mình đã bị vị ăn lương nhà nước này bắn thủng như tổ ong vò vẽ từ lâu rồi. Giờ định ra vẻ làm người tốt, có phải là đã chậm hay không. Chính xác là anh đứng về bên nào?”

Tôi đáp lại: “Tôi chỉ đứng về đội ngũ nhân dân, hành động theo lương tâm, làm người theo đạo nghĩa.” Mũ Sắt Đen không hiểu hết được mấy câu tiếng Trung này, chỉ biết là tôi đang giúp mình, bèn nén cơn đau nói: “Hồ, trước giờ tôi hiểu lầm anh mất rồi. Tôi không sao, nghỉ ngơi một lát là tốt thôi.”

Tôi nghĩ bụng, nói vớ vẩn, nếu ngay cả một đấm mà anh cũng không chịu được thì còn làm cảnh sát làm cái mẹ gì, về nhà thay tã cho con cho rảnh nợ. Ông đây đứng ra nói giúp ngươi là vì sợ bọn họ lợi dụng cơ hội độc ác xuống tay đánh ngươi tàn phế ngay lập tức. Ông đây làm vậy là để tỏ thái độ cho bọn họ biết, ở chỗ này ngươi không phải tứ cố vô thân. Thằng ngốc đội mũ cảnh sát này không hiểu đạo lý đối nhân xử thế giữa người Châu Á với nhau một chút nào, tôi chẳng muốn lên tiếng giải thích cho mất thì giờ, chỉ mỉm cười thân thiện với anh ta.

Vương Phổ Nguyên ngồi trên ghế lãnh đạo, thong thả nghiên cứu tập báo cáo đã bị cháy nham nhở. Tưởng Bình đứng ngồi không yên, kéo tôi ra một chỗ, hỏi: “Anh Hồ, giờ thằng em là người lương thiện. Chuyện trước kia, chúng ta có thể nể mặt ông chủ Vương bỏ qua, đừng có khai thằng em này ra không. Viên cảnh sát Mỹ kia cứ nhìn chằm chằm, thằng em đã dựng đứng hết lông tóc cả lên rồi đây này.”

Tôi bảo: “Anh bị tâm lý thôi! Anh thử nhìn lại hình dạng bên ngoài của mình mà xem, quấn kít mít như bénh tét, đừng nói một người chưa từng gặp anh bao giờ như anh ta, cho dù ngay cả cha ruột anh đến có lẽ cũng không nhận ra anh được. Đừng có ở đó mà thần hồn nát thần tính. Tôi hỏi anh, vào thời điểm ăn trộm mặt nạ lúc trước, ông chủ các anh có hé lộ manh mối nào khác hay không?”

Tưởng Bình ngẫm nghĩ một lát rồi đáp bằng giọng khẳng định: “Không phải là thằng em không muốn nói, mà mấy người bọn tôi chỉ là đội ngũ được chắp vá lại trong thời gian ngắn, ngay cả việc mình phải trộm cái gì thằng em cũng còn không biết. Nếu phải nói người nào có quan hệ mật thiết với ông chủ, thằng em chỉ thấy có hai tên Trâu Mộng và ‘Lý cẳng dài’ mà thôi. Sau khi bị bắt, thằng em và ‘Lý cẳng dài’ đã trao đổi với nhau vài câu. Hắn nói, thà rằng bị đánh chết cũng không thể bán đứng ông chủ. Hiện giờ ‘Lý cẳng dài’ đã không còn sống trên đời, người biết rõ mọi chuyện chỉ còn có mỗi tên Trâu Mộng kia mà thôi. Đáng tiếc là lúc trước bọn tôi không ước định bất cứ phương thức liên hệ nào với nhau, nếu không. . . Hắc hắc.”

“Nếu không thì anh đã sắp đặt bẫy, giúp lão già họ Vương bắt bọn họ từ lâu rồi có phải không?” Tôi khinh bỉ lườm Tưởng Bình, “Gặp phải tên phản bội như anh, coi như bọn chúng không may.”

Tưởng Bình phản bác: “Người ta thường nói, kẻ thức thời mới là trang tuấn kiệt. Huống chi, thằng em hợp nhóm với bọn họ cũng chỉ là bèo nước gặp nhau, mọi người góp gạo thổi cơm chung, lúc cần tan sẽ phải tan. Ông chủ Vương đối xử với thằng em rất tốt, lại đồng ý giữ thằng em ở lại nước Mỹ làm việc cho ông ấy, cớ gì mà không làm. Thằng em thấy, nếu đổi lại là anh, anh cũng sẽ động tâm.”

Tôi nói, vớ vẩn, con mẹ nó đừng có đánh đồng ông đây với loại phản bội như nhà ngươi. Nếu không phải vì bắt cái tên Trâu Mộng trong đám các ngươi, dù có rảnh rỗi đến phát khùng ông đây cũng sẽ không bao giờ hợp tác với cái lão ma cô kia.

Thấy tôi nổi giận, Tưởng Bình biết mình tự chuốc nhục vào thân, vì vậy lại quay về chỗ ghế salon ngồi, cầm tờ báo lên xem. Tuy nhiên, tiếng nước ngoài một chữ bẻ đôi hắn cũng không biết, cầm ngược tờ báo mà còn không hay.

Vương Phổ Nguyên tháo kính lão ra, thả tập tài liệu cháy xém xuống, ngẩng đầu lên, nói với tôi: “Hồ Bát Nhất, cậu qua đây xem, vật này có phải rất quen mắt hay không.”

Tôi cầm lấy một tờ giấy đã bị thiêu cháy mất một nửa, đó là một bản sao chép văn tự giáp cốt. Tôi nghĩ bụng, sao tự dưng lão già này lại mang thứ đồ cổ này để thử tài học của mình. Đừng nói là văn tự giáp cốt, ngay cả bảng chữ cái tiếng Anh tôi cũng còn chưa biết hết nữa là. Trong lúc cố kiên trì xem cho hết đoạn văn tự giáp cốt đó, tôi đột nhiên bị một con dấu nhỏ ở góc trên tờ giấy thu hút sự chú ý. Dấu hình tròn, đường kính tầm một centimet. Mặc dù đường nét không theo một quy tắc nào, nhưng chỉ cần liếc mắt là có thể nhận ra, con dấu này giống hệt với con dấu Bá Vương trên bảng hiệu của “Nhất Nguyên Trai”, chỉ khác nhau về mặt kích thước.

“Vật bị trộm không chỉ có mỗi mặt nạ của công chúa, mà còn có cái mai rùa ghi văn tự giáp cốt này.” Vương Phổ Nguyên chỉ vào tờ giấy cháy xém, nói, “Theo ta thấy, đây mới là mục đích thực sự của bọn chúng, những hành động mờ ám khác chẳng qua chỉ là tung hỏa mù che giấu mà thôi.”

Tôi thực sự không hiểu lắm, bèn hỏi lão: “Ý của cụ là, bọn chúng thực chất chỉ muốn lấy cái mai rùa, còn việc ăn trộm mặt nạ của công chúa Inca chỉ là hành động đánh lạc hướng chúng ta?”

“Không, không phải đánh lạc hướng chúng ta, mà là lừa trong lừa.” Vương Phổ Nguyên tràn đầy tự tin mỉm cười, “Cậu có biết cái mai rùa này khai quật được ở chỗ nào hay không?”

Tôi đáp, nếu là văn tự giáp cốt, đương nhiên phải là nơi nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, chỉ quanh quẩn quanh vùng Ân Hư. Nụ cười của lão càng tươi hơn: “Sai, theo phán đoán trong bản báo cáo của giáo sư Owen, cái mai rùa này được khai quật lên từ di tích vào thời kỳ cuối của đế quốc Inca.”

Đột nhiên nghe Vương Phổ Nguyên nói văn tự giáp cốt được tìm thấy trong di tích của người Inca, tôi cứ ngỡ lão già rồi nên lú lẫn, không ngờ Tần Bốn Mắt lại tỏ ra tán đồng với lão, hỏi!”: “Lẽ nào ông chủ Vương muốn nói tới ‘Neo đá’ được phát hiện ra ở ven biển California cách đây không lâu?”

Vương Phổ Nguyên nửa cười nửa không, nói: “Đây chính là lợi ích của việc đọc sách, nói một biết mười. Không giống vài tên nghé con xuất thân từ đám binh lính, ha ha, làm Mô Kim Giáo Úy vài năm mà đã ảo tưởng mình là chuyên gia khảo cổ rồi. Ha ha ha, đâu có biết rằng một vài tri thức chuyên môn vụn vặt của mình thực ra chỉ làm trò cười cho người trong nghề.”

Tôi như lạc vào sương mù trước đoạn đối đáp của hai người, đành phải hỏi Tần Bốn Mắt “Neo đá” là cái gì, có quan hệ gì với cái mai rùa mà chúng ta đang đề cập tới. Anh ta đẩy kính mắt: “Anh ở trong nước, thông tin thiếu thốn là điều dễ hiểu. Vào đầu những năm tám mươi, ở khu vực ven biển California người ta đã vớt được một cái ‘neo đá’. Dựa trên kỹ thuật chế tạo, họ cho rằng nó là mỏ neo hàng hải chuyên dụng vào thời Trung Quốc cổ đại. Sau khi định tuổi bằng các bon 14, cái mỏ neo đó đã có niên đại khoảng hơn hai nghìn năm. Điều này đã chứng tỏ, trước khi Columbus phát hiện ra Châu Mỹ, người Châu Á đã đặt chân lên mảnh đất này.”

“Đâu chỉ hơn một nghìn năm trước,” Vương Phổ Nguyên thao thao bất tuyệt khoe kiến thức, “Trong ‘Lương Thư: chư di truyện’ đã nhắc tới nước Phù Tang. Đầu những năm bốn mươi, giáo sư Chu Khiêm Chi đã từng viết một bài ‘Khảo chứng về nước Phù Tang’. Xét trên phương diện hệ thống canh tác nông nghiệp, đã đủ bằng chứng xác định Phù Tang quốc được nói tới trong ‘Lương Thư’ thực ra là Mexico hiện nay. Người Châu Á đã đặt chân lên châu Mỹ từ thế kỷ 5 đến 15.”

Vừa nghe thấy hai từ ‘Phù Tang’, Tuyền béo lập tức nổi hứng, vội vàng phản bác lại lão: “Ông cụ Vương, vào thời cổ đại, ‘Phù Tang’ chẳng phải là tên của Nhật Bản bây giờ hay sao? Tại sao lại biến thành Mexico, chắc là cụ đang đùa chúng tôi cho vui phải không?”

Vương Phổ Nguyên tỏ vẻ coi thường ra mặt, giải thích cho hai chúng tôi: “‘Bảo sao hay vậy’ tóm lại là điểm yếu của thế hệ các cậu. Ai, từ xưa đến nay, Trung Quốc chưa bao giờ dùng hai từ Phù Tang để gọi Nhật Bản cả. Vào thời cổ đại, Nhật Bản được gọi là ‘Uy’ quốc, là một trong Lục đại di quốc được ghi rõ rành rành trong ‘Lương Thư’. Sắp xếp theo vị trí địa lý, lần lượt là Cao Ly, Bách Tể, Tân La, Uy, Văn Thân Quốc, Phù Tang Quốc. Phù Tang có nghĩa là nơi “Mặt trời bắt đầu mọc”, các cậu chủ quan cho rằng nước Nhật nằm ở phía đông nước mình cho nên được gọi là Phù Tang, nhưng đâu có biết, quốc gia nằm ở gần kinh tuyến gốc mới thật sự là Phù Tang Quốc. Giả thuyết người Châu Á phát hiện ra Châu Mỹ chưa từng được công nhận. Tuy có rất nhiều chứng cứ về mặt khảo cổ, nhưng không thiếu chuyên gia học giả vẫn còn nghi ngờ, trong thời gian ngắn không thể phân rõ phải trái. Mặc dù vậy, việc phát hiện ra mai rùa ghi văn tự giáp cốt này lại hết sức có ý nghĩa. Các cậu đã từng đọc truyện ‘Thành Vương đông chinh’ chưa?”

Tôi gật đầu. ‘Phong Thần Bảng’, cuốn sách mang đầy tư tưởng cách mạng này luôn là sách gối đầu giường mang tính giáo dục và kim chỉ nam của tôi, ở đâu có áp bức thì ở đó có phản kháng. Để tìm hiểu nội dung của nó, tôi đã mất rất nhiều thời gian tìm hiểu giai đoạn lịch sử đó. Vào sáng sớm ngày Giáp tháng giêng năm thứ 11 thời Chu Vũ Vương, Chu Vũ Vương đã phát động ‘Cuộc chiến Mục Dã” nổi tiếng trong lịch sử, lật đổ sự thống trị của nhà Ân Thương, thành lập nên Đại Chu. Em trai của ông ta là Quản Thúc, Thái Thúc và Hoắc Thúc giữ chức “Tam giám”, tương đương với chức tư lệnh quân đội ngày nay. Hai năm sau, Chu Vũ Vương bị bệnh băng hà, con trai ông ta lên kế vị, sử sách gọi là Chu Thành Vương. Bởi vì Chu Thành Vương còn nhỏ, cho nên em trai của Vũ Vương là Chu Sáng phải gánh trọng trách phụ chính. Chính điều này đã gây ra sự bất mãn của hàng ngũ đại quý tộc như Quản Thúc, Hoắc Thúc, dẫn đến tranh đấu nội bộ. Mọi người đừng quên, lúc ấy còn có một người đang từng giờ từng phút tìm cơ hội trả thù phục quốc, đó chính là con trai của Thương Trụ – Vũ Di. Ông ta không hề bị chết dưới bàn tay độc ác của bà mẹ kế Hồ Tiên như trong tiểu thuyết đã miêu tả. Ông ta vẫn còn sống, hơn nữa ngày nào cũng sống trong day dứt tự trách bản thân. Tại sao lại như vậy? Bởi vì vào cái ngày nổ ra ‘Cuộc chiến Mục Dã’, ông ta dù nắm trong tay hai mươi lăm vạn binh hùng tướng mạnh nhưng lại không thể nào cứu vãn kết cục bại trận. Không phải ông ta không ra tay cứu vãn, mà bởi lúc ấy bản thân đang bị kìm chân ở tiền tuyến cuộc chiến chinh phạt ở vùng duyên hải phía đông, dẹp cuộc nổi loạn của các bộ lạc Bồ Cô, Từ, Hoài Di. Mặc dù các bộ lạc Đông Di nhỏ yếu đương nhiên không phải đối thủ của tinh binh Đại Thương, nhưng vì sa lầy vào cuộc đông chinh dẹp loạn không kịp quay trở về đó đã khiến kinh đô nhà Thương bị trống ở phía sau, giúp cho nhà Chu có cơ hội đánh lén, hơn nữa còn là một trận toàn thắng.

Sau khi nghe tin mất nước, vị vương tử tổng chỉ huy hai mươi lăm vạn tinh binh chinh phạt Vũ Di hận không thể bóp chết chính mình ngay tại chỗ. Đáng tiếc lúc ấy khoa học kỹ thuật rất lạc hậu, không có máy bay, lại càng không có hàng không mẫu hạm, nếu không thì hai mươi lăm vạn quân Thương được trang bị vũ khí tối tân nhất, đối phó với quân đoàn vẻn vẹn 300 chiến xa, 3.000 kỵ binh nặng, 4.500 bộ binh của Chu Vũ Vương, vậy thì có khác gì dùng liềm gặt lúa, vung tay lần nào cắt gọn cả một bó lần đó. Cho nên đồng chí Vũ Di ngày nào cũng sống trong đau khổ. Ông ta kêu gào, ông ta toan tính, ông ta chờ mong phục quốc. Chờ đằng đẵng hai năm, cuối cùng cơ hội cũng tới, ông ta lôi kéo Quản Thúc, Hoắc Thúc, hơn nữa còn triệu tập các bộ lạc trước kia bị tiễu trừ là Bồ Cô, Từ,.. mở hội nghị, nói ngắn gọn: Ông đây muốn đánh chiếm lại đất nước!

Ngay tức khắc, nền thống trị của nhà Chu tràn đầy nguy cơ. Rất may là Chu Sáng đã đề phòng từ trước. Ông triệu tập đội quân hùng hậu, trước tiên tiêu diệt kẻ khởi xướng Vũ Di, sau đó giết chết quân phản bội Quản Thúc, đày người có lập trường chính trị không kiên định là Hoắc Thúc đi lưu vong, tiêu diệt thế lực trung tâm của quân phản loạn. Cuối cùng, tiến hành tiễu trừ phía Đông, nhờ vậy mới có Đại Chu trăm năm hưng thịnh về sau. Lần giao chiến này có quy mô lớn hơn, tính chất tàn khốc hơn rất nhiều so với “Cuộc chiến Mục Dã”, thậm chí thời gian cũng dài hơn. Đến tận lúc đó mới chính thức hoàn thành mưu đồ bá nghiệp Chu diệt Thương.

Sau khi mọi người nghe tôi kể lại giai thoại lịch sử đó, ai ai cũng tỏ vẻ tán thưởng. Vương Phổ Nguyên khẽ gật đầu nói, thằng ranh nhà cậu cuối cùng cũng không phải là hạng người không có kiến thức. Tôi hỏi lão, chẳng lẽ “Thành Vương đông chinh” có liên quan đến cái mai rùa ghi văn tự giáp cốt này?

Vương Phổ Nguyên đáp: “Các nhà lịch sử học đã phỏng đoán, sau khi Vũ Di bị giết, tàn quân của ông ta, trong tình trạng mất người lãnh đạo, đã liên tiếp bại lui cho đến tận bờ biển Đông (TQ). Đám quý tộc mất nước nhà Thương rơi vào đường cùng, trước có truy binh sau có biển sâu. Như chúng ta đã biết, tổ tiên nhà Thương là bộ lạc sinh sống tại vùng duyên hải, nắm giữ kỹ thuật hàng hải tiên tiến. Họ có đủ năng lực vượt qua biển Đông, đi tới hải ngoại tìm kiếm một vùng trời mới để sinh tồn. Cùng thời kỳ ấy, ngay tại vùng đất Mexico tươi đẹp ở trung Mỹ, nền văn minh Olmec mang đậm sắc thái Trung Quốc, không hề có dấu hiệu của sự khởi điểm lẫn quá trình phát triển, đột ngột xuất hiện. Tác phẩm điêu khắc, đồ ngọc, vật tổ thờ cúng, kể cả những văn tự giáp cốt đã được phát hiện ra này của họ, đều có quan hệ mật thiết, thậm chí có thể nói là trực tiếp với những người dân di cư thời nhà Thương. Bản báo cáo của giáo sư Owen đi sâu vào nghiên cứu cái mai rùa viết văn tự giáp cốt được phát hiện trong rừng rậm của Peru. Ông ấy cho rằng, tổ tiên của người Anh Điêng Châu Mỹ có nhiều khả năng là người châu Á, mà cái mai rùa ghi văn tự giáp cốt này chính là bằng chứng hùng hồn nhất.”

Chợt nhớ tới những gì Shirley Dương đã kể về đế quốc Inca, tôi khó hiểu hỏi: “Theo lý thuyết, thủ đô của đế quốc Inca là Cuzco, nằm giữa một thung lũng trên cao nguyên. Vậy thì cái mai rùa viết văn tự giáp cốt được tìm thấy trong rừng Amazon này làm sao lại biến thành di vật của đế quốc Inca?”

“Bởi vậy mới nói cậu học không đến đầu đến đũa.” Vương Phổ Nguyên chỉ vào tài liệu, nói: “Lãnh thổ đế quốc Inca trải dài từ Peru đến Bolivia, có cả vùng khí hậu núi cao, có cả vùng rừng nhiệt đới. Khi quốc vương Inca bị người Tây Ban Nha sát hại, em trai ông ta là Huáscar* kế thừa vương vị, tiếp tục chống lại lũ xâm lược. Về sau không địch lại, ông này lập tức mang theo một lượng lớn vàng bạc của đế quốc cùng với con dân lui vào vùng rừng nhiệt đới để cố thủ, từ bỏ thủ đô Cusco. Đây chính là nguyên nhân tại sao lại phát hiện ra di tích của người Inca trong rừng rậm của Peru. Về phần con dấu trên mai rùa ghi văn tự giáp cốt này, tin chắc ta và cậu đều không xa lạ gì. Mối liên hệ xuyên suốt trong đó, cậu đã suy đoán ra được phần nào hay chưa?”

*Ở đây tác giả đã nhầm lẫn, đúng ra người này phải là Manco Inca Yupanqui.

Tôi gật đầu. Trước kia, tôi chưa bao giờ có ý nghĩ văn tự giáp cốt và di tích Inca có mối liên hệ gì với nhau. Đến giờ, thông qua bản báo cáo nghiên cứu bị cháy xém của giáo sư Owen, tôi đột nhiên nhận ra: Con dấu trên mai rùa ghi văn tự giáp cốt này chính là dấu của cái ấn Bá Vương mà Đạo trưởng Thái Nhất đã nhắc tới. Xưa kia, cùng với việc vượt đại dương sang châu Mỹ của con cháu đời sau nhà Ân, nó đã được người Inca liệt vào di vật linh thiêng của tổ tiên để lại. Cái ấn Bá Vương có nhiều khả năng là do Đạo trưởng Thái Nhất tình cờ tìm được trong quá trình đi du lịch. Ông lão học vấn uyên bác này đương nhiên biết rõ lai lịch của nó cho nên đã cất giữ rất cẩn thận. Nhằm giúp cho hai đệ tử hòa hợp với nhau, ông lão đã cử người chuyển cái ấn vàng về chỗ cũ, rồi giao bản đồ và chiếc nhẫn – chìa khóa để đọc bản đồ cho hai người, mỗi người một vật, với hi vọng họ có thể hợp tác với nhau giải mã bí mật để lấy lại chiếc ấn. Về phần cái ấn vàng này thực chất có đặc điểm nào đặc biệt, đó là điều thực sự khó có thể khám phá ra được.

Tôi nói đầu đuôi phân tích của mình ra cho Vương Phổ Nguyên nghe. Lão tương đối kích động, ho khan vài lần, đặc biệt là lúc tôi nói tới nỗi khổ tâm của Đạo trưởng Thái Nhất. Vương Phổ Nguyên bùi ngùi nói: “Ngụ ý của sư phụ rõ rành rành, bản tự đồng căn sinh tương tiên hà thái cấp(2); đã tính trước được là ta, một kẻ mang dòng giống Trung Hoa lưu lạc nơi đất khách cách xa quê nhà cả vạn dặm, khi nhìn thấy vật sẽ nhớ nhà mà trở nên đoàn kết một lòng. Ta và sư huynh Ngọc Cát là đồng môn, nhưng lại nhiều lần vì lợi ích cá nhân ích kỷ mà đấu đá với nhau. Kẻ đáng hận nhất phải nói là ta, sống đến cái tuổi này rồi mới hiểu thấu được nỗi khổ tâm của sư phụ. . .”

(2) Đây là hai câu cuối trong Bài thơ bảy bước của Tào Thực. Ý muốn nói anh em không nên tương tàn nhau, giống như câu ca dao “Lỗi lầm anh vẫn là anh, nồi da xáo thịt sao đành hỡi em” của người Việt ta.
七步詩

煮豆持作羹,
漉豉以為汁,
萁在釜下然。
豆在釜中泣,
本自同根生,
相煎何太急。

Thất bộ thi

Chử đậu trì tác canh,
Lộc thị dĩ vi trấp,
Cơ tại phủ há nhiên.
Đậu tại phủ trung khấp,
Bản tự đồng căn sinh,
Tương tiên hà thái cấp.

Bài thơ bảy bước

Đun đậu nấu làm canh,
Lọc đậu để lấy nước.
Cành đậu đốt ở dưới nồi,
Hạt đậu ở trong nồi khóc.
Vốn từ một gốc sinh ra,
Sao lại đốt nhau khốc liệt như vậy?
(Tham khảo thêm tại https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A0o_Th%E1%BB%B1c)

Nói xong, lão không cầm được lòng khóc nghẹn ngào. Bởi đã từng mất đi rất nhiều đồng đội cùng chung chiến hào, cho nên tôi có thể hiểu được phần nào tâm trạng lúc này của lão, bèn an ủi: “Cụ đã hiểu được nỗi niềm của đại sư, điều đó đã chứng tỏ mong muốn của người đã thành hiện thực, nỗi khổ tâm của Đạo trưởng Thái Nhất cuối cùng đã không uổng phí. Cụ cũng không cần phải quá mức tự trách bản thân. Con người ấy à, tóm lại là không tránh khỏi phạm sai lầm, phạm sai lầm không sao, quan trọng nhất là biết mình sai ở đâu, hơn nữa còn phải dũng cảm sửa sai. Đồng chí Vương kính mến, cụ vẫn là một đồng chí tốt.”

Vương Phổ Nguyên nhếch mép, tạo thành một nụ cười mang theo niềm bi thương khôn tả; Trong nháy mắt, dường như đã trở nên già nua hơn rất nhiều. Lão sai Đầu Trọc mở máy chiếu, chiếu hình ảnh tấm bản đồ lên tường, sau đó vung cây trượng, hăng hái nói: “Giờ chúng ta nhằm thẳng vào khu rừng nhiệt đới này tiến lên.”