Chương 28 : Evans

Tam Thể

Đăng vào: 2 năm trước

.

Sau nửa năm trở về trường đại học, Diệp Văn Khiết đảm nhiệm một đề tài quan trọng: thiết kế một đài quan trắc thiên văn vô tuyến cỡ lớn. Không lâu sau, cô và nhóm nghiên cứu đã phải đi khắp nơi chọn đất để xây dựng đài thiên văn. Những suy xét ban đầu chỉ thuần túy mang tính kỹ thuật, khác với quan trắc thiên văn truyền thống, yêu cầu của thiên văn vô tuyến đối với chất lượng bầu khí quyển và độ gây nhiễu từ ánh sáng nhìn thấy được không cao, nhưng phải cố gắng để ngăn ngừa sự gây nhiễu điện từ từ dải sóng ánh sáng không nhìn thấy được. Họ đi rất nhiều nơi, cuối cùng chọn được

một địa điểm có môi trường điện từ tốt nhất, đó là một vùng núi hẻo lánh ở Tây Bắc.
Núi đất vàng ở đây hầu như không có thảm thực vật, đất màu bị rửa trôi đi tạo nên những rãnh nứt khiến vùng sơn địa nhìn từ xa trông như gương mặt đầy nếp nhăn nheo của người già. Sau khi chọn sơ được vài điểm xây dựng, nhóm đề tài dừng chân nghỉ ngơi bên một thôn làng mà hầu hết nhà dân đều là kiểu nhà hầm bằng đất, đội trưởng đội sản xuất trong làng hình như nhận định Diệp Văn Khiết là người có học vấn, bèn hỏi cô có biết nói tiếng nước ngoài không… Cô hỏi là tiếng nước nào, viên đội trưởng trả lời không biết, nếu nói được tiếng nước

ngoài thì để anh ta kêu người gọi Bethune xuống, đội sản xuất có việc muốn thương lượng với anh ta.
“Bethune(*)?” Diệp Văn Khiết lấy làm kinh ngạc.
(*) Henry Norman Bethune, đảng viên Đảng Cộng Sản Canada, từng tham gia Bát Lộ Quân trong chiến tranh Trung Nhật lần thứ hai. Bethune đã mang y tế hện đại đến vùng nông thôn Trung Quốc và đối xử với người dân bị ốm bằng thái độ như đối với những người lính bị thương. Cống hiến quên mình của ông dành cho nhân dân Trung Quốc đã gây ấn tượng cho Mao Trạch Đông đến nỗi cả thế hệ sinh viên

Trung Quốc thời kỳ đó đều được yêu cầu phải học thuộc lòng bài ca tụng của Mao dành cho Bethune.
“Bọn tôi cũng không biết tên của gã ngoại quốc ấy, toàn gọi gã như thế thôi.”
“Anh ta chữa bệnh cho mọi người à?” “Không, gã ta trồng cây ở sau núi, đã
được gần ba năm nay rồi.”
“Trồng cây? Làm gì vậy?”
“Gã ta bảo là để nuôi chim, một loài chim mà nghe gã nói là sắp tuyệt chủng rồi.”
Diệp Văn Khiết và đồng nghiệp đều lấy làm ngạc nhiên, bèn nhờ đội trưởng

dẫn họ đi xem thử. Men theo con đường núi lên đến đỉnh một ngọn núi nhỏ, đội trưởng chỉ cho họ xem, hai mắt Diệp Văn Khiết sáng bừng lên… Giữa những ngọn núi đất vàng cằn cỗi này không ngờ lại có một triền núi được phủ kín rừng xanh, tựa như một mảng màu xanh tươi tắn vô ý rơi xuống tấm toan cũ kỹ ngả vàng vậy.
Nhóm của Diệp Văn Khiết nhanh chóng trông thấy người nước ngoài đó, ngoài mái tóc vàng đôi mắt xanh và bộ đồ vải bò đã cũ rích trên người, trông anh ta cũng chẳng khác gì những nông dân đã lao động suốt đời, thậm chí cả da dẻ anh ta cũng bị phơi nắng trở nên đen sạm giống như người dân bản địa. Anh ta dường như không hứng thú lắm với

người đến thăm, tự giới thiệu mình là Mike Evans, tuy không nói rõ quốc tịch, nhưng tiếng anh của anh ta có khẩu âm Mỹ rất rõ rệt. Anh ta sống trong căn nhà đất hai gian đơn sơ cạnh khu rừng, trong nhà chất đầy các loại công cụ để trồng cây: cuốc, xẻng sắt, cưa để cắt tỉa cành cây, toàn là loại thô kệch sản xuất ở địa phương. Bụi cát vùng Tây Bắc phủ kín cả chiếc giường sơ sài và mấy món đồ nhà bếp đơn giản, trên giường chất rất nhiều sách vở, hầu hết là sách sinh vật học, Diệp Văn Khiết chú ý thấy có cuốn Giải phóng động vật của Peter Singer. Món đồ hiện đại duy nhất có thể thấy ở đây chính là một chiếc radio nhỏ, pin tiểu bên trong đã dùng kiệt, nối với một

cục pin đại ở bên ngoài, còn cả một chiếc ống nhòm cũ nữa. Evans nói, rất xin lỗi vì không thể mời họ uống gì, cà phê đã hết từ lâu, nước thì có nhưng anh ta lại chỉ còn mỗi một cái cốc.
“Rốt cuộc anh làm gì ở đây vậy?” Một đồng nghiệp của Diệp Văn Khiết hỏi.
“Làm Chúa cứu thế.”
“Cứu… cứu người bản địa ư? Hoàn cảnh sinh thái nơi này đúng là…”
“Các người sao ai cũng như ai vậy?!” Evans đột nhiên đùng đùng nổi giận, “Chẳng lẽ chỉ cứu vớt con người thì mới được gọi là Chúa cứu thế hay sao, còn

cứu vớt các loài khác thì là chuyện nhỏ nhặt? Ai đã ban cho loài người cái địa vị tôn quý ấy? Không, con người không cần Chúa cứu thế, sự thực là hiện nay họ đã sống tốt hơn những gì họ xứng đáng được hưởng nhiều lắm rồi.”
“Nghe nói anh đang cứu một loài chim?”
“Đúng thế, một loài chim én, là một á chủng của én nâu Tây Bắc, tên khoa học rất dài, tôi không nói ra đây làm gì. Hằng năm, cứ đến mùa xuân, khi bọn chúng men theo tuyến đường cố định đã hình thành từ thời viễn cổ từ phương Nam trở về, chúng chỉ biết coi vùng này làm điểm đến của mình, nhưng thảm thực vật nơi

này mỗi năm lại biến mất một phần, lũ chim không tìm đâu được rừng cây để xây tổ và sinh sống nữa. Khi tôi phát hiện ra chúng ở đây, số lượng của loài này chỉ còn chưa đến mười nghìn cá thể, cứ tiếp tục như vậy trong vòng năm năm loài chim én này sẽ bị tuyệt chủng. Hiện tại, khoảnh rừng mà tôi trồng đã cung cấp điểm đặt chân cho một phần của đàn én, số lượng cá thể bắt đầu tăng trở lại, tất nhiên, tôi còn phải trồng thêm nhiều cây nữa, mở rộng diện tích của khu vườn địa đàng này ra.”
Evans bảo mấy người nhóm Diệp Văn Khiết cầm ống nhòm, đi theo sự chỉ dẫn của anh ta, mọi người nhìn một hồi lâu mới trông thấy mấy con chim màu đen

xám thoắt ẩn thoắt hiện trong rừng cây.
“Tầm thường lắm phải không? Bọn chúng tất nhiên không bắt mắt bằng gấu trúc rồi, trên thế giới này, mỗi ngày đều có những giống loài không được người ta chú ý như vậy bị tuyệt chủng.”
“Những cây cối ở đây đều do một mình anh trồng à?”
“Hầu hết là thế, mới đầu tôi cũng thuê người dân địa phương đến trồng, có điều chẳng mấy đã không còn nhiều tiền nữa, cây giống rồi dẫn nước… đều rất tốn tiền… nhưng các người có biết không? Cha tôi là tỷ phú đấy, ông ấy là tổng giám đốc một công ty dầu mỏ xuyên quốc gia, nhưng ông ấy không cho tôi tiền nữa,

tôi cũng không muốn dùng tiền của ông ấy.”
Evans như được mở máy nói, thao thao bất tuyệt tiếp lời, “Năm tôi mười hai tuổi, một chiếc tàu chở dầu ba vạn tấn của công ty bố tôi bị đụng phải đá ngầm trong vùng biển ven Đại Tây Dương, hơn hai vạn tấn dầu thô tràn ra biển. Lúc đó, cả nhà chúng tôi đang ở trong biệt thự nghỉ dưỡng cách vùng biển xảy ra sự cố không xa lắm. Chiều hôm đó, tôi đến cái bờ biển như thể một chốn địa ngục ấy, trông thấy biển cả biến thành màu đen, sóng biển bị lớp màng dầu dính nhớp đè ép mà trở nên phẳng lặng yếu ớt; bãi biển cũng bị một lớp dầu đen kịt phủ kín. Tôi và một số tình nguyện viên ở

trên bãi biển tìm kiếm những con chim biển còn sống sót, bọn chúng đang vùng vẫy trong dầu bẩn, con nào con nấy trông như bức tượng màu đen làm từ hắc ín, chỉ có đôi mắt là còn có thể chứng minh chúng là vật sống, những đôi mắt trong dầu bẩn ấy bao nhiêu năm sau vẫn thường xuyên xuất hiện trong cơn ác mộng của tôi. Chúng tôi ngâm lũ chim biển ấy vào trong dung dịch tẩy rửa, muốn gột sạch dầu bám trên mình chúng đi, nhưng khó khăn vô cùng, dầu nhớt và lông vũ dính chặt lấy nhau, chỉ cần hơi mạnh tay là lông vũ sẽ cùng với dầu nhớt bong ra từng mảng từng mảng… đến chập tối, hầu hết lũ chim biển đỏ vẫn chết. Khi ấy, tôi mệt mỏi ngồi trên bãi

biển màu đen, toàn thân dính đầy dầu nhớt, nhìn vầng dương lặn xuống mặt biển đen kịt, có cảm giác như thể đó là ngày tàn của thế giới này vậy.
“Không biết từ lúc nào, cha tôi đã đến sau lưng tôi, ông ấy hỏi tôi có còn nhớ bộ xương khủng long nhỏ nọ hay không. Tất nhiên tôi vẫn nhớ, bộ xương đó được phát hiện khi khảo sát mỏ dầu, rất hoàn chỉnh, cha tôi đã trả một khoản tiền lớn để mua nó về đặt trong trang trại nhà ông ngoại. Cha tôi nói tiếp: ‘Mike, bố từng kể cho con nghe tại sao mà loài khủng long tuyệt chủng, một tiểu hành tinh va phải địa cầu, thế giới trước tiên biến thành biển lửa, sau đó rơi vào bóng đêm và giá lạnh kéo dài… Đêm hôm đó con

bị ác mộng làm cho tỉnh giấc, con nói con mơ thấy trở về thời đại đáng sợ đó. Giờ bố nói cho con biết một chuyện khi ấy bố muốn nói nhưng lại không nói ra: nếu thật sự sống ở thời kỳ cuối của kỷ Phấn Trắng thì đó là may mắn của con đấy, vì thời đại mà chúng ta đang sống đây còn đáng sợ hơn nhiều. Hiện nay, tốc độ tuyệt chủng của các giống loài có sinh mệnh trên Trái đất này nhanh hơn thời kỳ cuối của kỷ Phấn Trắng nhiều lắm, hiện tại mới thực sự là thời đại của sự tuyệt chủng! Vì vậy, những thứ mà con nhìn thấy đây chẳng đáng là gì cả đâu, đây chẳng qua chỉ là một khúc nhạc đệm nhỏ nhặt chẳng đáng nhắc tới trong một quá trình lớn mà thôi. Chúng ta có thể không

có lũ chim biển, nhưng không thể không có dầu mỏ được, con có thể tưởng tượng nếu không có dầu mỏ thì sẽ như thế nào không? Món quà sinh nhật năm ngoái của con, chiếc Ferrari tuyệt đẹp ấy, bố từng hứa sau mười lăm tuổi con có thể lái nó, nhưng nếu không có dầu mỏ, nó chỉ là một đống sắt vụn thôi, con không bao giờ có thể lái được; giờ con muốn đến nhà ông ngoại, đi máy bay riêng của bố băng qua đại dương cũng chỉ mất mười mấy tiếng đồng hồ, nhưng nếu không có dầu mỏ, con sẽ phải ngồi thuyền buồm tròng trành cả tháng… đây chính là quy tắc của trò chơi văn minh. Trước tiên phải đảm bảo sự sinh tồn của loài người và cuộc sống thoải mái cho họ, những thứ khác

đều chỉ xếp hàng thứ hai mà thôi.’
“Cha gửi gắm vào tôi hy vọng rất lớn, nhưng cuối cùng ông ấy cũng không thể khiến tôi trở thành người mà ông ấy kỳ vọng. Trong những tháng ngày sau đó, đôi mắt của lũ chim biển sắp chết lúc nào cũng ở sau lưng nhìn chằm chằm vào tôi, quyết định cả cuộc đời tôi. Vào sinh nhật năm tôi mười ba tuổi, cha hỏi tôi sau này có dự định gì, tôi không trả lời, tôi chỉ muốn làm một vị Chúa cứu thế mà thôi. Lý tưởng của tôi thật sự không lớn lao gì cả, chỉ là muốn cứu vớt một giống loài đang ở bên bờ vực tuyệt chủng, có thể là một loài chim không xinh đẹp, một giống bướm xám xịt, hoặc là một thứ bọ cánh cứng chẳng hề nổi bật. Về sau, tôi

đi học ngành sinh vật, trở thành học giả về chim và côn trùng. Đối với tôi, lý tưởng của mình rất vĩ đại, cứu vớt một loài chim hoặc côn trùng cũng chẳng khác gì cứu vớt nhân loại cả, sự sống là bình đẳng, đây chính là cương lĩnh cơ bản của chủ nghĩa cộng sản giống loài.”
“Gì cơ hả?” Diệp Văn Khiết nhất thời không nghe rõ cụm từ ấy.
“Chủ nghĩa cộng sản giống loài, đây là một học thuyết do tôi sáng lập, cũng có thể nói là một tín ngưỡng, lý tưởng trung tâm của nó chính là: mọi giống loài có sự sống trên Trái Đất này đều là bình đẳng.”
“Đây chỉ là một lý tưởng, không thực

tế. Cây nông nghiệp cũng là một giống loài, chỉ cần con người còn sống, thứ bình đẳng này không thể thành hiện thực được.”
“Trong quá khứ xa xôi, các lãnh chúa cũng từng có suy nghĩ như thế đối với nô lệ. Đừng quên khoa học kỹ thuật, rồi sẽ đến một ngày, con người có thể tổng hợp ra lương thực, nhưng trước đó rất lâu, chúng ta đã cần phải chuẩn bị về mặt tư tưởng và lý luận. Thật ra, chủ nghĩa cộng sản giống loài chính là sự tiếp diễn của ‘Tuyên ngôn nhân quyền’, Cách mạng Pháp đã trải qua hai trăm năm rồi, vậy mà chúng ta vẫn chưa bước tiếp được một bước này, có thể thấy loài người ích kỷ và giả dối đến chừng nào.”

“Anh định ở lại nơi này bao lâu nữa?”
“Không biết, làm một vị Chúa cứu thế, dù có tốn cả cuộc đời cũng là xứng đáng thôi, cảm giác này rất đẹp đẽ, rất kỳ diệu. Tất nhiên, tôi cũng chẳng trông mong gì ở các vị.”
Evans nói xong những lời này, đột nhiên lại trở nên lạnh nhạt, chẳng hứng thú nói chuyện nữa, chỉ bảo anh ta phải đi làm việc, rồi cầm một cái cuốc và một cái cưa bỏ đi. Lúc từ biệt, anh ta liếc mắt nhìn Diệp Văn Khiết thêm một lần, tựa như thấy gì đó đặc biệt ở cô.
“Một con người cao thượng, một con người thuần khiết, một con người có đạo

đức, một con người đã vượt thoát khỏi sự tầm thường.” Trên đường trở về, một đồng nghiệp của Diệp Văn Khiết đọc thuộc lòng một câu trong bài “Kỷ niệm Bethune” của Mao Trạch Đông, “Thì ra còn có thể sống như vậy.” Anh ta thở dài.
Những người khác cũng lần lượt bày tỏ sự tán đồng và cảm khái, Diệp Văn Khiết lẩm bẩm như thể nói với chính mình: “Nếu những người như anh ta nhiều hơn một chút, dù chỉ là thêm một chút thôi, sự thể sẽ hoàn toàn khác.”
Tất nhiên, không ai hiểu được hàm nghĩa thực sự trong câu nói của cô.
Người phụ trách nhóm đề tài chuyển chủ đề câu chuyện trở lại với công việc,

“Tôi cảm thấy địa điểm này không ổn, lãnh đạo cũng sẽ không phê chuẩn đâu.”
“Tại sao? Trong bốn phương án địa điểm của chúng ta, hoàn cảnh điện từ ở đây là tốt nhất đấy.”
“Thế còn hoàn cảnh con người thì sao? Đồng chí, đừng chỉ nghĩ đến phương diện kỹ thuật, vùng này là đất chó ăn đá gà ăn sỏi, biết không hả? Đất nghèo sinh điêu dân, sau này quan hệ với phía địa phương sợ là rất phiền phức, nói không chừng, đài thiên văn sẽ trở thành miếng thịt Đường Tăng ở đây ấy chứ.”
Địa điểm này quả nhiên không được phê chuẩn, nguyên nhân đúng như những

gì người phụ trách đã nói.

Ba năm trôi qua, Diệp Văn Khiết không còn nhận được tin tức gì của Evans nữa.
Một ngày mùa xuân năm ấy, Diệp Văn Khiết đột nhiên nhận được một tấm bưu thiếp, không ngờ lại là Evans gửi đến, bên trên chỉ viết một câu đơn giản:
Đến đây đi, cho tôi biết phải sống tiếp thế nào.
Diệp Văn Khiết ngồi tàu hỏa một ngày một đêm, lại đổi xe ô tô đi thêm mấy tiếng nữa mới đến được ngôi làng vùng núi hẻo lánh miền Đông Bắc ấy.

Khi leo lên tới đỉnh ngọn núi nhỏ đó, cô lập tức trông thấy khu rừng, diện tích không khác nhiều so với ba năm trước, nhưng do cây cối sinh trưởng, trông đã rậm rạp hơn rất nhiều. Có điều, Diệp Văn Khiết mau chóng phát hiện ra, diện tích của khu rừng này từng được mở rộng hơn trước nhiều, nhưng lúc này, phần mở rộng ra đó đã bị chặt phá… Việc chặt phá vẫn đang tiến hành hừng hực khí thế, khắp khu rừng đều có cây cối không ngừng đổ xuống, cả khu rừng tựa như một phiến lá xanh bị rất nhiều sâu ăn lá bám vào cắn xé, với tốc độ này thì chẳng mấy nó sẽ biến mất. Những kẻ đang chặt cây là người ở hai thôn làng gần đây, họ dùng rìu và cưa xẻ lần lượt hạ gục những thân

cây nhỏ vừa mới trưởng thành xuống, sau đó dùng máy kéo và xe bò chuyển xuống núi. Người đến chặt cây rất nhiều, những cuộc tranh cãi dữ dội liên tục xảy ra.
Những thân cây nhỏ đổ xuống không gây ra tiếng động gì lớn, cũng không nghe thấy tiếng ầm ầm của cưa máy nhưng cảnh tượng tựa hồ đã từng gặp đâu đó này vẫn khiến trái tim Diệp Văn Khiết thắt lại.
Có người vẫy tay gọi cô, chính là tay đội trưởng đội sản xuất nọ, giờ đã là trưởng thôn, anh ta nhận ra Diệp Văn Khiết. Khi cô hỏi anh ta tại sao lại phá rừng, anh ta đáp: “Cái khu rừng này ấy hả, có được nhà nước bảo hộ đâu.”

“Sao lại nói thế được? Chẳng phải là vừa mới ban bố Luật Bảo vệ rừng đấy thôi?”
“Nhưng ai đã phê chuẩn cho Bethune trồng cây ở đây chứ? Người nước ngoài tự tiện đến triền núi của Trung Quốc trồng cây, luật nào mà bảo vệ cho chứ?”
“Nói thế là không đúng rồi. Anh ta trồng cây trên núi hoang, lại không chiếm đất canh tác, vả lại, mới đầu khi anh ta trồng cây mọi người cũng có nói gì đâu.”
“Thì thế, hồi sau trên huyện còn bảo anh ta là kiểu mẫu trồng rừng cơ. Vốn dĩ trong thôn định mấy năm nữa mới thu rừng lại, nuôi lợn thì phải nuôi cho béo rồi mới thịt mà, nhưng đám người bên

thôn Nam Khất không dợi được đã đến chặt luôn rồi, bọn tôi mà không ra tay thì cũng chẳng có cháo mà húp.”
“Các anh phải dừng lại ngay! Tôi phải đến cơ quan nhà nước để phản ánh chuyện này!”
“Khỏi cần.” Trưởng thôn châm một điếu thuốc, chỉ vào chiếc xe hàng lớn đang chất cây gỗ lên, “Nhìn cái xe kia chưa, chính là của phó phòng lâm nghiệp huyện đấy, còn có cả xe của đồn công an thị trấn nữa, họ là người lấy nhiều gỗ nhất đấy! Tôi đã bảo rồi, rừng này không có danh không có phận gì, không được bảo vệ, cô tìm đến đâu cũng vô dụng thôi; với lại, đồng chí Diệp này, cô là

giáo sư đại học cơ mà? Chuyện này thì liên quan gì đến cô?”
Hai gian nhà đất đó vẫn còn nguyên, nhưng Evans không ở bên trong, Diệp Văn Khiết tìm thấy anh ta trong rừng cây, đang cầm một chiếc rìu chăm chú tỉa tót cành cây, rõ ràng là đã làm rất lâu, bộ dạng mệt mỏi vô cùng.
“Dù có ý nghĩa hay không, tôi cũng không thể nào dừng lại được, dừng lại là tôi sẽ suy sụp ngay.” Evans nói trong lúc thành thạo chặt bỏ một cành cây mọc lệch.
“Chúng ta cùng lên huyện tìm chính quyền, không được thì lên tỉnh thành, thế nào cũng có người ngăn họ lại.” Diệp

Văn Khiết nhìn anh ta đầy vẻ quan tâm.
Evans dừng tay, nhìn Diệp Văn Khiết với ánh mắt kinh ngạc, ánh chiều tà xuyên qua tầng tầng cây lá chiếu vào, sáng lên lấp lánh trong con ngươi của anh ta. “Diệp, cô thực sự nghĩ rằng tôi thế này là vì khu rừng hay sao?” Anh ta cười cười lắc đầu, vứt chiếc rìu trên tay đi, ngồi dựa lưng vào một thân cây, “Giờ tôi mà muốn ngăn họ lại thì dễ như trở bàn tay thôi.” Anh ta trải một cái túi dụng cụ rỗng không xuống đất, ra hiệu cho Diệp Văn Khiết ngồi xuống, đoạn nói tiếp, “Tôi vừa từ Mỹ trở lại đây, cha tôi đã qua đời hai tháng trước, tôi được thừa kế hầu hết tài sản của ông ấy. Anh trai và chị gái tôi mỗi người chỉ được

năm triệu. Điều này khiến tôi rất bất ngờ, thật sự không thể ngờ được cuối cùng ông ấy lại làm vậy với tôi, có lẽ, sâu thẳm trong lòng ông ấy vẫn coi trọng tôi, hoặc giả, là coi trọng lý tưởng của tôi. Không tính bất động sản, cô biết hiện nay tôi có bao nhiêu tiền trong tay không? Đại khái chừng 4,5 tỷ đô la. Tôi có thể dễ dàng khiến họ ngừng chặt phá cây, sau đó khiến họ trồng cây, khiến mọi ngọn núi đất vàng trong tầm mắt của chúng ta đều được phủ kín những rừng cây mọc nhanh thế này, rất dễ dàng, nhưng thế có ý nghĩa gì đâu chứ? Mọi thứ cô nhìn thấy đây có thể quy kết cho sự nghèo đói, nhưng ở những quốc gia giàu có thì sao đây? Bọn họ tạo ra môi trường trong lành

tốt đẹp cho mình, nhưng lại chuyển dịch những ngành công nghiệp nặng gây ô nhiễm đến các nước nghèo, chắc cô đã biết, chính phủ Mỹ vừa mới từ chối ký kết Nghị định thư Kyoto… Bản chất của cả nhân loại này đều như nhau cả, chỉ cần văn minh tiếp tục phát triển thế này, loài chim én mà tôi muốn cứu, còn cả những loài én khác nữa, sớm muộn gì cũng sẽ bị tuyệt chủng, tất cả chỉ là vấn đề thời gian mà thôi.”
Diệp Văn Khiết lẳng lặng ngồi đó, nhìn những tia sáng mà vầng tịch dương rọi vào khu rừng nhỏ, lắng nghe tiếng chặt phá huyên náo đằng xa, tâm trí cô quay lại hơn hai mươi năm về trước, quay lại khu rừng trong dãy núi Đại

Hưng An, ở đó, cô cũng từng có một cuộc đối thoại tương tự với một người đàn ông khác.
“Có biết tại sao tôi đến đây không?” Evans nói tiếp, “Mầm mống của tư tưởng chủ nghĩa cộng sản giống loài đã xuất hiện ở phương Đông từ thời cổ đại rồi.”
“Anh muốn nói đến Phật giáo?” “Đúng thế, Cơ Đốc giáo chỉ coi trọng
con người, tuy rằng tất cả các giống loài
đều được đưa lên thuyền Noah, nhưng chưa bao giờ cho những sự sống khác có địa vị đồng đẳng với loài người, còn tư tưởng của Phật giáo là phổ độ chúng sinh, vì vậy tôi mới đến phương Đông. Nhưng… giờ xem ra ở đâu cũng thế

thôi.”
“Đúng vậy, ở đâu cũng thế thôi, loài người đều như nhau cả.”
“Giờ tôi có thể làm gì đây? Tôi dựa vào cái gì mà sống tiếp đây? Tôi có 4,5 tỷ đô la, và một công ty dầu mỏ xuyên quốc gia, nhưng thế thì đáng là gì chứ? Số tiền loài người đã bỏ ra để cứu môi trường sinh thái đang ngày một xấu đi cũng vượt quá 4,5 tỷ đô rồi, nhưng có tác dụng gì? Văn minh vẫn cứ theo quỹ đạo của nó mà hủy diệt những giống loài khác trên Trái đất, ngoại trừ con người ra. 4,5 tỷ đô có thể xây dựng một chiếc tàu sân bay, nhưng dù xây dựng một nghìn tàu sân bay thì cũng chẳng thể ngăn sự điên

cuồng của loài người lại.”
“Mike, đây chính là điều tôi muốn nói với anh, văn minh của nhân loại đã không thể nào dựa vào sức mạnh tự thân để thay đổi tốt hơn nữa rồi.”
“Nhưng ngoài nhân loại ra còn lực lượng nào khác nữa không? Nếu Thượng Đế có thật thì cũng đã chết từ lâu rồi.”
“Có đấy, có một lực lượng khác.”
Lúc này, Mặt trời đã lặn xuống sau rặng núi, đám người chặt cây đã dừng tay, rừng cây và triền núi đất vàng xung quanh chìm trong tĩnh lặng. Diệp Văn Khiết kể lại toàn bộ chuyện về căn cứ Hồng Ngạn và thế giới Tam Thể cho

Evans nghe, dường như còn có cả rừng cây trong ánh chiều tà và cao nguyên đất vàng xung quanh nó nữa. Khi Diệp Văn Khiết kể hết câu chuyện, một vầng trăng sáng nhô lên phía trời Đông, chiếu xuống những bóng sáng lốm đốm trong khu rừng.
Evans nói: “Giờ tôi vẫn chưa thể tin lời cô nói được, dẫu sao chuyện này cũng quá đỗi thần lỳ, may mắn là tôi có khả năng chứng thực mọi chuyện, nếu nó là sự thật,” anh ta chìa tay ra với Diệp Văn Khiết, nói ra câu nói mà sau này tổ chức Tam Thể Địa Cầu nhất thiết phải nói mỗi khi kết nạp thành viên mới, “chúng ta là đồng chí.”