Chương 16: Đưa ngựa vằn đến vegas

Percy Jackson Tập 1: Kẻ Cắp Tia Chớp

Đăng vào: 2 năm trước

.

Thần chiến tranh đợi chúng tôi ngoài bãi xe của tiệm ăn hôm trước.

– Chà chà, mấy đứa chưa chết à?

Tôi chỉ trích:

– Ông biết đó là bẫy mà còn bảo chúng tôi vào.

Thần Ares cười khoái trá:

– Chắc lão thợ rèn chưng hửng vì mất công giăng lưới bẫy hai nhóc tì ngu xuẩn. Trên TV, hai đứa trông xinh ra phết.

Tôi giúi khiên vào người ông ta:

– Đồ đểu!

Annabeth và Grover sợ tái mặt.

Chộp ngay tấm khiên, thần Ares xoay nó trên không như miếng bột bánh pizza, biến nó thành áo chống đạn. Ông ta khoác áo lên vai.

Thần Ares chỉ chiếc xe tải hạng nặng bên kia đường, đối diện quán ăn:

– Thấy xe kia không? Mấy đứa sẽ lên xe đó. Xe chạy thẳng đến Los Angeles, chỉ nghỉ một lần khi đến Vegas.

Tấm bảng sau xe có dòng chữ: TỔ CHỨC NHN ĐẠO QUỐC TẾ: PHƯƠNG TIỆN VẬN CHUYỂN CỦA SỞ THÚ NHẬN ĐẠO. LƯU Ý: THÚ HOANG CÒN SỐNG.

Tôi bực mình:

– Ông giỡn đấy ư?

Thần Ares búng tay, then cửa sau xe rơi ra.

– Đi xe miễn phí nhé. Nhãi con đừng ca cẩm nữa. Cầm lấy, trả công cho vụ vừa rồi đây.

Ông ta lấy ba lô bằng vải nylon móc trên tay ga ném cho tôi.

Bên trong có mấy bộ quần áo sạch, 20 đô la tiền mặt, túi nhỏ đựng tiền drachma và bịch bánh ngọt Oreos.

Tôi cau có:

– Đây không thèm mấy thứ vớ vẩn…

Grover đỡ lời, đồng thời lừ mắt nhìn tôi đi kèm sắc mặt dữ tợn nhất có thể.

– Cảm ơn Ngài. Cảm ơn lắm lắm.

Tôi nghiến răng trèo trẹo. Hành động từ chối quà thần ban là sự xúc phạm ghê gớm nhưng tôi căm ghét mọi thứ Ares chạm tay vào. Miễn cưỡng, tôi khoác ba lô lên vai.

Dù biết hễ nhìn thầm Ares rồi nổi cáu là vô lí, nhưng tôi vẫn ngứa ngáy chân tay, chỉ muốn thoi ông ta một quả vào giữa mặt cho bõ tức. Ông ta nhắc tôi nhớ mọi kẻ từng bắt nạt tôi: Nancy Bobofit, Clarisse, Gabe Cóc Chết, các giáo viên hay mỉa mai và mọi tên đốn mạt ngày đi học dám bảo tôi ngu hoặc cười hô hố lúc tôi bị đuổi học.

Ngoái đầu nhìn, tôi thấy trong quán ăn chỉ còn vài thực khách. Chị phục vụ hôm trước mang bánh cho chúng tôi giờ đứng sát cửa sổ lo lắng quan sát. Hình như chị sợ thần Ares ra tay với ba đứa chúng tôi. Chị rủ cả đầu bếp ra xem. Chị vừa rỉ tai ông ta. Đầu bếp gật đầu, lấy máy ảnh chụp cho chúng tôi một kiểu.

Tôi nghĩ thầm: “Chán thật, mai ba đứa lại lên báo”

Dòng tít tưởng tượng chạy trong đầu tôi: TỘI PHẠM 12 TUỔI ĐÁNH ĐẬP DÃ MAN TAY ĐUA MÔ TÔ KHÔNG PHÒNG VỆ.

Tôi cố giữ giọng bình tĩnh:

– Ông nợ tôi một chuyện. Lúc trước ông có hứa cho biết tin về mẹ tôi.

Ông ta khởi động xe:

– Có chắc mày chịu nổi hung tin không? Mẹ mày chưa chết.

Đất dưới chân tôi quay cuồng:

– Nghĩa là sao?

– Nghĩa là khi bà ấy sắp chết, có người đưa bà ấy thoát khỏi tay quỷ đầu bò. Mẹ mày biến thành cơn mưa vàng, đúng chưa? Vậy linh hồn có rời đi chỗ khác. Chưa chết, chỉ bị bắt giữ thôi.

– Sao mẹ tôi bị bắt?

– Đúng là vắt mũi chưa sạch mà. Phải học binh pháp chứ. Đây là “chiêu” dùng con tin. Bắt người này để khống chế người khác.

– Đừng hòng ai khống chế được tôi.

Ông ta cười khả ố:

– Ghê quá nhỉ? Thôi, ta còn gặp nhau nhiều.

Tôi nắm chặt hai tay:

– Còn ông chớ tự mãn. Mới thấy tượng Cupid mặc bỉm nghịch cung tên đã quay đầu bỏ chạy. Vậy mà cũng tự xưng là thần chiến tranh.

Lửa bốc cháy sau cặp kính mát. Gió nóng thổi bạt hơi tôi, như thể tôi đang đứng từ xa quan sát vụ thử tên lửa hạt nhân:

– Percy Jackson, tao chưa xong chuyện với mày đâu. Khi nào đánh nhau nhớ cẩn thận đấy.

Ông ta rồ máy, chiếc Harley gầm gào vọt xuống cuối đường.

Annabeth nhận xét:

– Thế là không ngoan đâu.

– Mặc kệ.

– Chẳng ai muốn gây thù chuốc oán với thần thánh, với thần Ares thì càng không.

Grover chêm vào:

– Các cậu ơi, dù không thích ngắt lời, nhưng tớ phải…

Nó chỉ quán ăn. Tại quầy thanh toán, hai thực khách cuối cùng đang trả tiền, hai ông mặc áo liền quần có logo trắng giống như logo trên xe tải Tổ chức nhân đạo quốc tế.

– Nếu muốn nhờ xe trên sở thú, ta phải nhanh chân lên mới kịp.

Dù không thích, nhưng tôi biết ba đứa tôi không còn cách nào khác. Với lại, vãn cảnh Vender thế là đủ lắm rồi.

Chúng tôi chạy sang đường, trèo lên cửa sau của xe và đóng chặt cửa.

Mùi thối làm tôi bật ngửa: xe này có mùi của ổ mèo con lớn nhất thế giới. Trong xe tối mù. Tôi mở nắp bút, dùng ánh sáng từ kiếm Thủy triều quan sát khung cảnh não nề.

Ba chuồng sắt bẩn thỉu xếp thành dãy nhốt ba con thú hoang trông sầu thảm chưa từng thấy: một ngựa vằn, một sư tử đực lông trắng và một con thuộc loài linh dương trông rất lạ.

Chuồng sư tử có bao củ cải. Chắc chắn nó không thích ăn thứ đó. Chuồng linh dương và ngựa vằn đều có khay nhôm đựng thịt bò xay. Bờm ngựa vằn dính bết bã kẹo cao su, giống như có người tiêu khiển bằng cách nhai kẹo rồi nhổ bã lên người nó. Sừng linh dương treo bóng bay mừng sinh nhật có dòng chữ ngớ ngẩn: HAY ĂN CHÓNG LỚN.

Tất nhiên, không ai muốn đến gần làm sư tử khó chịu. Con vật tội nghiệp cuồng chân trong không gian nhỏ xíu, đi tới đi lui trên miếng vải lót chuồng bẩn thỉu, thở hổn hển bởi không khí ngột ngạt trong xe. Ruồi bu quanh cặp mắt đỏ lè, xương sườn nhô ra dưới lớp lông trắng toát.

Grover phẫn nộ:

– Nhân đạo là thế này ư?

Nó định nhào ra ngoài, túm cổ lái xe dùng sáo bằng cây sậy vụt hắn nhừ tử . Tôi sẵn sàng tiếp tay cho nó. Rủi thay, xe nổ máy ầm ầm, thùng xe rung chuyển. Nếu chúng tôi không ngồi thể nào cũng ngã.

Ba đứa nép trong góc, ngồi trên mấy bao tải đựng thức ăn gia súc mốc xanh mốc đỏ, cố quên mùi thối, ruồi nhặng và cái nóng kinh người. Grover kêu be be bắt chuyện với 3 con thú, nhưng chúng chỉ im lặng buồn bã nhìn nó.

Annabeth nóng ruột, định phá chuồng thả thú hoang nhưng tôi phân tích rằng nên chờ xe đến trạm nghỉ đã. Thêm vào đó, chắc chắn sư tử thấy ba chúng tôi ngon lành hơn củ cải.

Tìm được hũ nước, tôi đổ đầy cho chúng, sau đó dùng kiếm đồng khều đồ ăn bỏ nhầm chuồng ra ngoài. Tôi cho sư tử ăn thịt, ngựa vằn và linh dương ăn củ cải.

Grover dỗ dành linh dương để Annabeth lấy dao cắt bóng bay. Bạn ấy muốn xén lông bờm dính bã kẹo cao su nhưng chúng tôi khuyên chớ nên làm thế vì xe xóc này rất nguy hiểm.

Sau khi bảo Grover hứa với chúng sáng mai sẽ giúp, chúng tôi dọn chỗ đi ngủ.

Grover nằm co ro trên bao củ cải.

Annabeth mở bịch bánh Oreos nhai trệu trạo.

Tôi tự ủy tạo tinh thần bằng cách tự nhủ ba đứa đã đi được nửa đường. Hôm nay mới ngày 14 tháng 6, trước ngày Hạ chí – 21/6 những một tuần. Thời gian đang ủng hộ chúng tôi.

Mặt khác, tôi không biết cái gì đang đợi mình ở phía trước. Các thần thay nhau đùa bỡn tôi. Ít nhất thần Hephaestus không lén lút: ngang nhiên ghi hình tôi để giải trí. Giờ ống kính ngừng hoạt động, tôi vẫn cảm giác họ theo dõi từng đường đi nước bước của ba chúng tôi. Hóa ra tôi là thằng hề mua vui cho các thần.

Annabeth thì thào:

– Này, xin lỗi cậu. Chỉ tại lúc ở công viên nước, tớ sợ quá.

– Không sao.

Cô bạn rùng mình:

– Chỉ tại… lũ nhện.

– Trong chuyện nữ thần Arachne chứ gì? Bà ấy biến thành nhện thách mẹ cậu thi dệt vải, đúng không?

Annabeth gật đầu:

– Kể từ đó con thần Arachne tìm con thần Athena trả thù. Mới cách 2 cây số, nhện đã đánh hơi thấy tớ rồi. Tớ ghét cay ghét đắng mấy sinh vật bé xíu, ghê rợn đó. Mà thôi, tớ nợ cậu lần này.

– Tụi mình hoạn nạn có nhau mà. Với lại Grover cũng bay đến cứu chứ bộ.

Tưởng nó ngủ, ai dè Grover nằm trong góc góp chuyện:

– Tớ bay giỏi ra trò, nhỉ?

Annabeth và tôi bật cười.

Cô bạn lấy bánh bẻ cho tôi một nửa:

– À… lúc nói chuyện qua cầu vồng… anh Luck bảo gì cậu thế?

Vờ mải ăn, tôi nghĩ cách trả lời sao cho khéo. Từ tối đến giờ, tôi băn khoăn mãi về chuyện ấy:

– Luke kể chuyện cậu và anh ấy hồi đó. Anh ấy còn nhắn… lần này Grover không thất bại như lần trước. Không ai bị biến thành cây thông cả.

Ánh sáng mờ của cây kiếm không thể soi tỏ mặt người..

Grover kêu be não nề, giọng nó run run:

– Đáng nhẽ ngay từ đầu tớ nên kể hết với cậu. Tớ sợ… nếu biết tớ từng thất bại, cậu sẽ không cho tớ đi cùng.

– Cậu là thần rừng từng gắng cứu Thalia, con gái thần Dớt?

Nó gật đầu, mặt buồn hiu:

Tôi quay sang Annnabeth:

– Còn hai bạn của Thalia đến trại Con Lai an toàn là cậu và anh Luke, đúng không?

Cô bé buông miếng bánh ăn dở:

– Như tớ đã nói, con lai mới 17 tuổi đầu không thể đi xa một mình. Mẹ Athena chỉ đường cho tớ tìm người giúp. Lúc ấy Thalia 12, Luke 14. Họ cũng bỏ nhà đi giống tớ. Hai anh chị vui vẻ cho tớ đi cùng. Dù chưa được huấn luyện, Thaila và Luke chống trả yêu quái rất tài tình. Từ Virginia, ba anh em lên phương Bắc mà không có kế hoạch gì rõ ràng. Suốt hai tuần, chúng tớ vừa đi vừa tránh yêu quái cho đến khi Grover tìm được tụi tớ.

Grover sụt sịt:

– Đáng lẽ tớ phải đưa Thaila về trại an toàn. Chỉ mình Thalia thôi. Lệnh của bác Chiron ngặt nghèo lắm: không được để bất cứ chuyện gì làm chậm tiến trình giải cứu. Nhưng dù biết Hades ráo riết săn lùng Thalia, chị ấy và tớ không thể bỏ mặc Annabeth và Luke. Lúc đầu tớ tưởng mình có khả năng đưa cả ba về trại an toàn. Chính tớ khiến bọn người tử tế đuổi kịp cả nhóm. Tớ sợ quá. Lúc sắp đến trại, tớ quên đường nên cả nhóm đi lạc. Chỉ cần tớ nhanh chân hơn một chút thì…

Annabeth mắng:

– Thôi đi. Có ai trách cậu đâu nào. Thalia cũng không trách cậu.

Grover thống thiết:

– Thalia hi sinh thân mình bảo vệ bọn tớ. Tại tớ nên cô ấy mới chết. Chính hội đồng kết luận thế mà.

– Chỉ vì cậu không bỏ mặc hai người khác? Thật bất công quá!

Annabeth thêm vào:

– Percy nói đúng. Không có cậu, tớ không còn sống đến hôm nay. Cả anh Luke nữa. Hội Đồng nói gì kệ họ.

Grover chưa thôi sụt sịt trong góc tối:

– Số tớ cũng may. Thần rừng kém cỏi nhất trần đời tìm được Thalia và Percy, hai con lai hùng mạnh nhất trong vòng 100 năm trở lại đây.

Annabeth giữ nguyên chính kiến:

– Cậu không kém cỏi. Tớ chưa từng thấy thần rừng nào dũng cảm như cậu. Thử hỏi có thần rừng nào dám xuống địa ngục chưa? Tớ chắc chắn Percy mừng vì có cậu đi cùng.

Không cần Annabeth gợi ý, tôi nói rất thành thực:

– Phải đấy. Cậu gặp Thalia và tớ không phải nhờ vận may. Cậu là thần rừng tốt bụng nhất. Cậu có tài tìm kiếm bẩm sinh. Chính vì thế cậu sẽ tìm được thần Pan.

Có tiếng thở phào nhẹ nhõm từ chỗ Grover nằm. Tôi chờ xem nó định nói gì nhưng chỉ thấy nghe tiếng thở sâu và đều hơn. Lát sau, tiếng thở trở thành tiếng ngáy. Nó đã ngủ say.

Tôi trầm trồ:

– Sao Grover làm được như thế?

Annabeth đáp:

– Tớ không biết. Nhưng những gì cậu nói với Grover có tác dụng tốt đấy.

– Tớ thật lòng mà.

Trong lúc xe đi thêm, vài dặm nữa, chúng tôi ngồi lắc lư theo mấy bao thức ăn gia súc. Ngựa vằn nhai củ cải rào rào. Sư tử ăn hết thịt bò xay, liếm môi nhìn tôi hi vọng.

Annabeth vuốt dây đeo cổ như đang suy nghĩ về kế hoạch sắp tới.

Tôi hỏi:

– Hạt sứ có hình cây thông tượng trưng cho năm đầu phải không?

Annabeth ngước lên:

– Ừ. Mỗi năm, cứ đến tháng 8, các nhân viên tư vấn của trại chọn một sự kiện quan trọng nhất của mùa hè để vẽ hạt sứ. Tớ có hình cây thông của Thalia, tàu chiến cổ ba tầng chèo bốc cháy, nhân mã mặc váy dạ hội… mùa hè này lạ nhất…

– Còn nhẫn kia của cha cậu?

– Không phải chuyện của… – Annabeth dừng lại – À, phải. Của cha tớ.

– Nếu cậu không muốn kể cũng không sao.

Hơi thở Annebeth run rẩy:

– Không… được mà. Hai năm trước, cha tớ gửi nó kèm một bức thư. Chiếc nhẫn giống… vật lưu niệm cha giữ để nhớ đến mẹ. Không có bà, ông không thể hoàn tất chương trình tiến sĩ ở Havard… Chuyện dài lắm. Tóm lại. Cha muốn tớ giữ nhẫn. Ông xin lỗi vì lúc trước không lo cho tớ vẹn toàn. Ông còn nói ông rất thương con và nhớ con. Ông muốn tớ quay về sống với ông.

– Nếu vậy cha cậu không đến nỗi tệ.

– Ừ thì… Rắc rối ở chỗ tớ tin và làm theo lời cha. Đầu năm học, tớ cố gắng về sống ở nhà. Nhưng dì ghẻ không thay đổi. BÀ không muốn con ruột bị vạ lây bởi sống chung với đứa quái dị. Thế rồi yêu quái tấn công. Cả nhà to tiếng. Tớ không ở nổi đến kì nghỉ đông. Tớ liên lạc với bác Chiron và quay lại Trại Con Lai ngay lập tức.

– Cậu sẽ không bao giờ cố gắng sống bên cha ruột nữa sao?

Annabeth tránh nhìn mắt tôi:

– Thôi đừng nhắc nữa. Tớ không muốn tự dằn vặt.

– Đừng bó tay, phó mặc. Hãy viết thư tay tìm cách liên lạc với cha.

Annabeth lạnh lùng:

– Cám ơn cậu đã khuyên. Nhưng cha tớ muốn sống với ai là quyền của ông. Và ông đã chọn rồi.

Chúng tôi lại im lặng thêm vài dặm nữa.

Tôi gợi chuyện:

– Nếu có biến trên đỉnh Olympia, mọi thứ sẽ rạch ròi như cuộc chiến thành Troy. Thần Athena sẽ chống lại thần Poisendon à?

Annabeth nhắm mắt, gối đầu lên balo thần Ares cho chúng tôi hồi tối:

– Chẳng biết mẹ tớ sẽ làm gì. Chỉ biết tớ sẽ sát cánh bên cậu.

– Tại sao?

– Vì cậu là bạn tớ, ngố ạ. Còn câu nào ngộ nghĩnh hơn đem ra hỏi nốt đi?

Tôi im bặt. May thay, Annabeth không vặn vẹo thêm và ngủ thiếp đi.

Muốn theo gương Annabeth không dễ. Xung quanh tôi có tiếng Grover ngáy vang và ánh mắt thèm khát của sư tử trắng. Nhưng cuối cũng, tôi cũng nhắm mắt nằm yên. Mới đầu, ác mộng đêm đó giống vô số cơn ác mộng trước: tôi bị bắt làm bài kiểm tra trong lúc mặc áo trói người điên. Các bạn làm xong đã ra chơi hết. Cô giáo luôn miệng nhắc: “Trò Percy sao thế? Em có trì độn đến mức không làm được tí gì, phải không? Cầm bút lên đi chứ!”

Từ lúc đó, giấc mơ khác với bình thường.

Tôi nhìn sang bàn nên thấy một bạn gái cũng mặc áo trói. Cô bé bằng tuổi tôi, để tóc giống ca sĩ nhạc rock, cặp mắt xanh biển dữ dội kẻ viền thật đậm và mũi lấm tấm tàn nhang. Tự nhiên, tôi biết tên bạn ấy là Thalia, con gái thần Dớt.

Vừa tìm cách gỡ áo trói, Thalia vừa lườm tôi gắt gỏng:

– Làm gì đi chứ, óc tảo biển? Một trong hai ta phải ra khỏi đây.

Phiên bản của tôi trong cơn mơ thầm nghĩ: “Bạn ấy nói đúng. Tôi phải trở lại hang, cho Hades thấy tôi cũng thông minh như ai.”

Áo trói trên người tôi tan chảy và biến mất. Tôi ngã vật xuống nền lớp học. Giọng cô giá thay đổi, lạnh lùng và độc ác, vọng từ đáy vực sâu: “Percy Jackson, cuộc đổi chác suôn sẻ quá đấy”

Tôi trở lại hang tối. Linh hồn người chết vây quanh tôi. Dưới hố sâu vẫn có giọng yêu quái. Nhưng lần này nó không nói với tôi. Tiếng ghê rợn làm người ta bủn rủn chân tay ấy nhắm vào nơi khác.

– Nó không nghi ngờ gì sao?

Có tiếng nói rất quen vang sau lưng tôi: “Không hề, thưa chúa tể. Hắn cũng ngu dốt như bao đứa khác”

Tôi quay đầu nhìn nhưng hình như người vừa nói tàng hình.

Sinh vật dưới hố nói vọng lên:

– Lừa dối chồng chất lừa dối. Khá lắm.

– Thưa chúa tể, chính người mới xứng danh đệ nhất quỷ quyệt. Nhưng làm thế có cần thiết không ạ? Tôi có thể dâng người thứ tôi lấy ngay trước mắt…

Sinh vật kia khinh bỉ:

– Ngươi ư? Ngươi đã chứng tỏ mình kém cỏi thế nào rồi. Nếu ta không can thiệp, ngươi đã làm hỏng chuyện của ta.

– Nhưng…

– Bình tĩnh đi, kẻ bầy tôi hèn mọn. Sáu tháng qua, ta thắng lợi lớn. Dớt ngày càng tức tối. Poisendon phải chơi nước cờ tuyệt vọng. Giờ ta sẽ dùng gậy ông đập lưng ông. Ngươi sẽ sớm thỏa nguyện: trả thù đích đáng. Ngay khi hai bảo bối về tay ta… Khoan đã. Hắn đang ở đây.

Giọng tên nô tài tàng hình chợt căng thẳng:

– Cái gì? Ngài gọi hắn lên ư?

Lực ép mạnh mẽ của quái vật vây chặt tôi:

– Không. Nhưng hắn giống cha: hay thay đổi, rất khó lường. Thằng ranh ấy tự vào đây.

Tên nô tài kêu lên:

– Không thể thế được?

Giọng nói hằm hè:

– Phải, nhưng chỉ đối với kẻ yếu đuối như ngươi thôi.

Rồi nó lạnh lùng quay sang tôi:

– Thằng con lai kia, ngươi muốn kết thúc nhiệm vụ này chứ gì? Để ta gia ơn cho.

Cảnh trong mơ thay đổi.

Tôi đứng trong căn phòng có ngai vàng. Tường nhà bằng đá hoa cương đen. Nền nhà bằng đồng. Chiếc ngai khủng khiếp không có người ngồi ghép bằng xương người.

Mẹ tôi đứng dưới bục. Bất động trong ánh sáng mờ ảo. Hai tay bà dang rộng.

Tôi cố đến gần nhưng không nhấc nổi chân. Những bộ xương mặc giáp trụ của lính Hy Lạp vây quanh tôi. Chúng choàng áo bào gấm bó chặt người tôi, đội vòng nguyệt quế tẩm nọc độc của Chimera làm đầu tôi bỏng rát.

Giọng nham hiểm khi nãy cười sằng sặc: “Chào mừng anh hùng bách chiến bách thắng”

Tôi giật mình tỉnh giấc.

Grover lay vai tôi:

– Xe dừng rồi. Hình như họ sắp lên kiểm tra thú hoang.

Annabeth nói nhỏ:

– Trốn thôi!

Bạn ấy thì dễ rồi. chỉ cần đội mũ tàng hình và biến mất. Grover và tôi phải trốn sau đống bao thức ăn gia súc, hy vọng mình trông giống củ cải để không bị phát hiện!

Cửa xe kẹt mở. Ánh nắng chói chang và khí nóng ùa vào.

Tài xế phẩy tay trước cái mũ xấu xí:

– Trời, kinh quá! Giá mình nhận chở máy móc có phải hơn không.

Hắn leo vào trong, rót nước vào 3 đĩa trong 3 chuồng.

– Nóng không con?

Ông ta hắt nước còn trong xô vào mặt sư tử.

Chúa sơn lâm gầm lên giận giữ.

– Gầm này! Gầm nữa đi!

Núp dưới bao củ cải cạnh tôi, Grover căng thẳng, mặt mày dữ tợn.

Gã tài xế ném cho linh lương bao tải đựng cái gì giống bí xanh.

Hắn bĩu môi nhìn ngựa vằn:

– Khỏe không, đồ vằn vện? Ít nhất ta cũng tống khứ ngươi ở trạm dừng này. Ngươi thích sân khấu ảo thuật không? Màn diễn sắp tới tuyệt vời. Người ta sẽ cưa ngươi thành 2 khúc.

Ngựa vằn trợn mắt sợ hãi nhìn thẳng vào tôi.

Không có tiếng nói, nhưng rõ ràng tôi nghe nó bảo: “Cầu xin chúa tể thả con ra”

Tôi sững sờ.

Có tiếng gõ ngoài thành xe: Cạch! Cạch! Cạch!

Tài xế trong thùng xe với chúng tôi la lên:

– Eddie, mày muốn gì đây?

Giọng bên này – chắc chắn là Eddie – quát nạt:

– Maurice, mày vừa nói gì?

– Mày gõ làm gì thế?

CẠCH! CẠCH! CẠCH!

Bên ngoài, Eddie gắt:

– Tao gõ lúc nào?

Gã Maurice chán nản trở ra, miệng lầm bầm chửi Eddie dở hơi.

Một giây sau, Annabeth xuất hiện ngay cạnh tôi. Chắc cô bạn vừa gõ để kéo Maurice ra ngoài.

Annabeth bảo:

– Doanh nghiệp vận tải này chắc chắn làm ăn phi pháp.

Grover góp chuyện:

– Rõ rồi – nó dừng lại như lắng nghe – sư tử vừa mách hai gã này buôn lậu thú quý hiếm.

Tiếng ngựa vằn vang lên trong đầu tôi:

– Đúng vậy đấy.

Grover kiên quyết:

– Ta phải thả chúng thôi.

Nó và Annabeth nhìn tôi chờ đợi.

Tôi chỉ nghe tiếng ngựa, còn sư tử thì không. Tại sao thế?

Thêm một thứ tôi không biết… Sao tôi chỉ hiểu ngựa vằn? Tôi hoàn toàn mù tịt khi nghe tiếng động vật nói chung… chỉ hiểu mỗi loài da hai màu đen trắng.

Tôi chợt nhớ: Ngựa. Annabeth từng bảo thần Poisendon tạo ra giống ngựa. Ngựa vằn cùng là ngựa. Có phải vì thế nên tôi hiểu tiếng chúng?

Ngựa vằn nói tiêp:

– Xin chúa tể mở cửa chuồng cho tôi. Sau đó, tôi sẽ tự lo.

Bên ngoài, Eddie và Maurice quát nhau ầm ĩ. Thể nào cãi nhau xong, chúng cũng vào đây hành hạ ba con thú.

Tôi dùng kiếm Thủy Triều chém ổ khóa chuồng ngựa vằn.

Ngựa xồ ra. Nó quay sang tôi, cúi đầu:

– Đa tạ chúa tể.

Grover giơ tay ngăn lại, nói gì đó với ngựa. Hình như nó vừa chúc thượng lộ bình an.

Vừa lúc đó Maurice thấy ồn nên ló đầu vào. Ngụa vằn nhảy qua đầu hắn xuống đường. Nghe tiếng người hét, tiếng còi xe inh ỏi, chúng tôi chạy ra của vừa kịp thấy ngựa phi nước kiệu giữa đại lộ rộng thênh, hai bên đường toàn khách sạn, sòng bài và biển quảng cáo neon đủ màu. Chúng tôi vùa thả con ngựa vằn vào giữa đường phố Las Vegas.

Maurice và Eddie chạy theo ngựa, kéo theo nhóm cảnh sát chạy theo chúng. Cảnh sát quát:

– Này! Hai anh phải trình giấy phép nuôi thú quý hiếm.

Annabeth bảo:

– Giờ ta đi là tiện nhất.

Grover đáp:

– Thả hai con còn lại trước đã.

Tôi chém nốt hai ổ khóa kia. Grover giơ tay, lặp lại câu chúc khi nãy.

Tôi bảo hai con vật tội nghiệp:

– Chúc may mắn đấy.

Linh dương và sư tử ra khỏi chuồng cùng nhảy xuống đường.

Vài du khách kêu ré. Có người lùi lại chụp hình lia lịa. Chăc họ nghĩ mấy sòng bài thuê thú về làm xiếc để quảng cáo.

Tôi hỏi Grover:

– Liệu chúng có sao không? Thú rừng ngoài sa mạc thì sao nhỉ?

– Đừng lo. Tớ vừa cho chúng bùa hộ mệnh của thần rừng.

– Nghĩa là sao?

– Nghĩa là chúng sẽ về rừng an toàn. Chúng sẽ tìm được nước uống, thức ăn, … bất cứ thứ gì chúng cần cho tới khi về được chỗ cũ.

– Sao không cho bọn tớ bùa ấy?

– Bùa chỉ linh nghiệm với thú hoang dã.

Annabeth trêu chọc:

– Vậy hợp với một mình Percy.

Tôi giãy nảy:

– Nói gì thế?

Cô bạn cười xòa:

– Đùa đấy. Ta đi thôi, tớ hết chịu nổi mùi thối này rồi. Ba đứa bước thấp bước cao đi giữa chiều sa mạc nóng cháy. Nhiệt độ lên đến 37, 38 độ C. Chắc chắn trông chúng tôi giống trẻ bụi đời, nhưng vì ai cũng quay sang nhìn thú hoang nên không để ý đến bộ ba nhem nhuốc, bơ phờ.

Ba đứa đi qua trường quay của hãng phim Monte Carlo và MGM. Ở đây có Kim Tự Tháp, tàu cướp biển và tượng nữ thần tự do. Tuy tất cả chỉ là mô hình thu nhỏ nhưng cũng khiến tôi nhớ nhà vô cùng.

Ba đứa không biết mình tìm gì. Thực ra, chúng tôi chỉ mong có chỗ trốn cái nóng chừng vài phút, tìm bánh kẹp và nước chanh và cùng bàn kế hoạch đi tiếp về phương Tây.

Lát sau, chúng tôi lạc đến ngõ cụt và đứng ngẩn ngơ trước Khách Sạn & Sòng Bài Hoa Sen. Lối vào là bông hoa khổng lồ viền đèn ống. Cánh hoa trang trí đèn nhấp nháy. Không thấy người ta ra vào tấp nập nhưng cửa nhôm bên trong có mở. Hơi từ máy lạnh tỏa ra mang theo mùi hoa thơm ngát: chắc mùi hoa sen nở. Vì chưa thưởng thức hương hoa sen bao giờ nên tôi không dám khẳng định.

Thấy chúng tôi, người gác cổng mỉm cười:

– Cháo các cháu. Sao trông mệt mỏi thế? Muốn vào trong ngồi nghỉ không?

Một tuần trở lại đây, tôi trở nên hay nghi ngờ. Giờ hễ thấy bất cứ ai, tôi lại nghĩ nếu không phải yêu quái, chắc chắn là thần thánh. Ai biết đâu được. Nhưng trông người này bình thường. Mới nhìn, tôi dám khẳng định ngay.

Còn nữa, biết có người cảm thông với mình, tôi nhẹ nhõm đôi chút. Vậy nên, tôi gật đầu bảo đồng ý.

Qua cửa vào bên trong, chúng tôi nhìn quanh. Grover trầm trồ:

– Ôi chao!

Tiền sảnh là phòng chơi rộng lớn, thiết bị hiện đại, không phải trò Pacman hay bỏ xu tầm thường. Nơi đây có cầu trượt nước trong nhà uốn lượn quanh thang máy bằng kính lên cao ít nhất 40 tầng. Một bên tòa nhà có tường tập leo núi và cầu nhảy Bungee thiết kế trong nhà. Sảnh có nhiều bộ quần áo kèm súng laze cho trò chơi thực tế ảo. Nơi đây bài trí hàng trăm máy video game kèm màn hình cỡ lớn. Nói chung là, trên đời có trò chơi gì, ở đây có hết. Lác đác vài thiếu niên vào chơi. Nơi này không nhộn nhịp như ở chỗ khác. Không ai phải chờ đợi cả. Nơi đây có đội phục vụ bàn và nhiều quầy ăn nhẹ phục vụ nhiều món ngon.

– Xin chào!

Người trực tầng (tôi đoán thế) niềm nở. Ông ta mặc áo sơ mi hoa sặc sỡ in logo của khách sạn Hoa Sen, diện quần sooc và đi dép lê:

– Chào mừng quý vị đến sòng bài Hoa Sen. Chìa khóa phòng đây ạ.

Tôi lắp bắp:

– Nhưng mà…

Ông ta cười xòa:

– Đừng lo. Có người thanh toán mọi khoản rồi. Ở đây không thu phụ phí, không đòi tiền boa. Cứ lên phòng trên cùng, phòng 4001. Nếu cần bất cứ thứ gì, chẳng hạn thêm dầu tạo bọt cho bồn tắm nước nóng hay đạn đất sét tập bắn chim câu, cứ việc gọi tiếp tân. Đây là thẻ tín dụng LotusCash dùng trong nhà hàng, các máy chơi game và mọi phương tiện đi lại.

Ông ta đưa cho mỗi đứa một thẻ tín dụng màu xanh lá cây.

Tôi biết chắc có nhầm lẫn ở đây. Ông này tưởng ba đứa tôi là cậu ấm cô chiêu nhà tỉ phú chắc? Tuy nhiên tôi vẫn nhận thẻ:

– Phòng ở đây giá bao nhiêu?

Ông ta cau mày:

– Ý cháu là sao?

– Là… ngộ nhỡ thẻ hết tiền.

Ông ta cười vui vẻ:

– Cháu cứ đùa. Vui tính ghê. Thôi, chúc vui vẻ nhé.

Chúng tôi theo thang máy lên trên phòng.

Đó là căn hộ biệt lập trên tầng thượng, có 3 phòng ngủ, một quầy bar chất đầy bánh kẹo, nước ngọt và Bim Bim. Có đường dây nóng gọi phục vụ. Có khăn tắm mềm xốp, nệm nước và gối êm. Có tivi màn hình rộng nối vệ tinh cùng Internet tốc độ cao. Có ban công gắn với bồn tắm nước nóng riêng, và tất nhiên có máy bắn chim câu và súng săn. Người chơi chỉ việc bắn chim bằng đất sét lên bầu trời Las Vegas, sau đó bắn bể chim bằng súng săn. Trò ấy không thể gọi là hợp pháp nhưng khá thú vị. Phong cảnh nhìn từ đây rất đẹp, có thể ngắm sa mạc phía xa. Tuy nhiên, ở phòng này chẳng ai có thời gian đứng ngắm cảnh nữa.

Annabeth kêu lên:

– Trời ơi! Chỗ này…

Grover đỡ lời:

– Tuyệt vời. Thích cực kì.

Trong tủ có sẵn quần áo vừa người tôi. Tôi cau mày thấy lạ. Nếu họ nhầm tôi với người khác, sao quần áo có cùng cỡ với tôi?

Tôi ném ba lô của thần Ares vào sọt rác. Không cần thứ này nữa. Khi nào đi, tôi sẽ mua ba lô mới trong cửa hàng của khách sạn.

Tôi đi tắm. Sau một tuần bụi bặm được tắm sạch sẽ sảng khoái biết bao. Mặc quần áo xong, tôi ăn hết gói Bim Bim, uống ba lon nước ngọt Coke. Lâu lắm rồi, tôi mới được dễ chịu thế này.

Sâu thẳm trong tâm khảm, tôi day dứt không yên. Có phải đây là một giấc mơ… Nên đi gặp hai bạn bàn cho ra ngô ra khoai. Thôi, cứ tận hưởng thêm chút nữa, bàn bạc sau cũng không muộn.

Ra ngoài phòng ngủ, tôi thấy Annabeth và Grover cũng vừa tắm và thay đồ mới. Grover ăn khoai tây chiên, còn Annabeth mải mê xem kênh truyền hình National Geographic.

Tôi bảo:

– Bao nhiêu kênh hay không xem, lại đi xem kênh này? Cậu có bị sao không vậy?

– Kênh này hay quá trời.

Grover gật gù:

– Dễ chịu quá. Tớ thích chỗ này.

Nó phởn chí đến nỗi không biết giày tự mọc cánh, nâng bổng hai bàn chân lên không rồi hạ xuống như cũ.

Annabeth hỏi:

– Giờ ta làm gì đây? Đi ngủ à?

Grover và tôi nhìn nhau cười, cùng móc túi lấy thẻ LotusCash.

– Đi chơi thôi.

Tôi chưa bao giờ vui đến thế. Sinh ra trong nghèo khó, với tôi, phung phí tiền bạc có nghĩa đến nhà hàng KFC hay McDonald ăn hamburger và thuê băng video về xem. Làm gì dám mơ đến khách sạn năm sao ở Las Vegas.

Tôi nhảy bungee dưới sảnh năm, sáu lần, trượt nước một lần, chơi game trượt tuyết trên sườn núi và chơi trò thực tế ảo bắn súng tay đôi với tay bắn tỉa FBI. Tôi thấy Grover mấy lần chuyển trò chơi. Nó thích nhất trò đi săn ngược: hươu nai săn người lỗ mãng. Annabeth thích trò đấu trí và trò chơi giành cho con gái. Ở đây có màn hình 3-D dùng chơi trò kiến thiết cả thành phố. Các tòa nhà chọc trời đua nhau mọc lên trông như thật. Tôi không thích trò đó lắm nhưng Annabeth thực sự mê mẩn.

Bất ngờ, tôi phát hiện ra có chuyện không ổn.

Có lẽ do anh chàng đúng cạnh tôi, cũng chơi trò đấu súng. Tôi đoán người này bằng tuổi tôi, nhưng quần áo rất lạ lùng. Có lẽ cậu ta là con trai một người thích bắt chước Elvis. Cậu ta mặc quần jeans ống loe, áo thun đỏ, tóc uốn xoăn trông giống con gái xứ New Jersey chuẩn bị đi dạ hội.

Lúc cùng chơi bắn tỉa, cậu ta bảo tôi:

– Này công tử, tớ ở đây hai tuần, chơi mãi trò này vẫn thấy hay.

Lập tức, tôi thầm thắc mắc: “công tử là từ xưa lắm rồi”.

Lát sau, tôi lỡ miệng nói tiếng lóng, bảo cậu ta “tinh tướng”. Cậu ta giật mình nhìn tôi như chưa hề nghe tiếng đó bao giờ.

Cậu ta tự giới thiệu mình tên là Darrin. Nhưng thấy tôi hỏi nhiều quá, Darrin đâm chán, quay lại chơi tiếp.

Tôi gọi:

– Darrin này.

– Gì?

– Giờ là năm mấy?

Cậu ta nhíu mày:

– Năm trong trò chơi à?

– Không. Năm ngoài đời thực.

Darrin phải nghĩ giây lát:

– 1977.

Tôi bắt đầu sợ:

– Đừng đùa. Tớ hỏi thật đấy.

– Cái cậu này, làm tớ phân tâm quá. Tớ đang chơi dở.

Sau đó cậu ta quên hẳn tôi.

Tôi trò chuyện với vài người nữa. Cảm giác bất an lớn dần. Họ dán mắt vào màn hình tivi, dính với máy chơi game, hoặc đồ ăn… Tôi gặp một bạn bảo với tôi giờ là năm 1985. Người khác bảo 1993. Nhưng ai cũng bảo họ chỉ ở đây mấy ngày. Tối đa là vài tuần. Họ không biết chính xác và cũng không quan tâm.

Tôi giật mình tự hỏi: vậy tôi ở đây bao lâu? Theo tôi nhớ thì chỉ có vài tiếng đồng hồ. Nhưng thực tế có đúng vậy không?

Tôi cố nhớ lí do đến đây. Chúng tôi đang trên đường đến Los Angeles. Nhiệm vụ là tìm lối vào địa ngục. Mẹ tôi… trong một thoáng, tôi hoảng hốt vì không nhớ tên bà. Là Sally. Sally Jackson. Tôi phải tìm mẹ. Tôi phải chặn tay Hades trước khi ông ta châm ngòi cho Thế Chiến thứ Ba.

Khi tôi tìm thấy Annabeth, cô ấy vẫn mải miết xây nhà.

Tôi giục:

– Đứng lên đi. Ta đi khỏi đây ngay.

Không trả lời.

Tôi lay vai cô ấy:

– Annabeth!

Cô ấy khó chịu nhìn tôi:

– Gì?

– Ta phải đi.

– Đi là thế nào? Cậu nói linh tinh gì thế? Người ta đang xây tháp…

– Nơi này là bẫy đấy.

Cô bạn không trả lời. Tôi lay lần nữa. Annabeth gắt lên:

– Cậu làm gì thế hả?

– Nghe kĩ đây: Địa ngục. Nhiệm vụ chưa hoàn thành.

– Tôi mà, Percy. Mấy phút nữa thôi.

– Này Annabeth, có người từ năm 1977 vẫn ở đây. Họ là trẻ con, mãi không không lớn thành người. Nếu ai trót bước chân vào, sẽ phải ở lại suốt đời.

– Thế đã sao? Cậu có mơ cũng không có đâu bằng ở đây.

Tôi chộp tay bạn, lôi cô khỏi trò chơi.

– Này này.

Annabeth la lối, đánh tôi túi bụi nhưng xung quanh không ai buồn ngó đến. Họ đắm mình vào thú vui riêng, quên hết sự đời.

Tôi xoay mặt Annabeth nhìn thẳng mặt tôi:

– Nhện. Lũ nhện khổng lồ, lông lá.

Cô bé hơi hoảng và dẫn tỉnh táo lại:

– Chết rồi, ta ở đây lâu chưa?

– Tớ không biết. Nhưng phải tìm Grover ngay.

Hai đứa tìm mãi. Cuối cùng thấy nó đang chơi trò săn hươu ảo.

Hai đứa cùng thất thanh:

– Grover!

Nó nghiến răng:

– Chết này! Chết này! Đồ con người ngốc nghếch chuyên gây ô nhiễm!

– Grover!

Nó chĩa khẩu súng nhựa về phía tôi lên đạn, làm như tôi là nhận vật trong trò chơi không bằng.

Tôi đưa mắt nhìn Annabeth. Cả hai đồng loạt xông vào xốc nách mang nó đi. Lập tức, tôi giày bay mọc cánh lôi chân nó ra phía sau:

– Đừng! Tớ mới lên màn cao hơn! Thả tớ ra!

Người trực tầng sòng bài Hoa Sen vội đuổi theo:

– Quý khách đến nhận thẻ bạch kim ạ?

Tôi kiên quyết:

– Chúng tôi đi đây.

Giọng tha thiết của ông ta làm tôi tin rằng, nếu chúng tôi đi, ông ta sẽ cực kì đau khổ:

– Tiếc quá. Chúng tôi mới xây thêm lầu toàn trò chơi dành cho khách có thẻ bạch kim.

Ông ta chìa thẻ và tôi muốn cầm lấy ngay. Nếu lấy thẻ, tôi sẽ không bao giờ đi được. Tôi sẽ sống phủ phê trong khách sạn, chơi game suốt đời, vui vẻ suốt đời. Chẳng bao lâu, tôi sẽ quên mẹ, quên nhiệm vụ, thậm chí quên cả tên mình. Tôi sẽ chơi bắn tỉa với công tử Darrin mãi mãi.

Grover chìa tay định lấy, nhưng Annabeth cầm tay nó giật lại:

– Cảm ơn, nhưng không lấy đâu.

Trên đường ra cửa, mùi thức ăn và âm thanh vui tươi từ trò chơi quyến luyến bước chân tôi. Hay là ta cứ ở lại đêm nay… ngủ trên giường cho ra giường, dù chỉ một lần.

Lát sau, ba đứa đẩy cửa sòng bài Hoa Sen, hoảng hốt chạy dọc con phố. Bên ngoài là buổi chiều, tầm giờ lúc vào khách sạn. Nhưng thực ra không phải. Hôm nay thời tiết u ám, chớp rạch ngang bầu trời ngoài sa mạc.

Balo của thần Ares lủng lẳng sau lưng tôi. Lạ thật, tôi vứt nó vào thùng rác phòng 4001 rồi cơ mà. Tuy nhiên, đầu óc tôi mải nghĩ chuyện khác.

Tôi chạy đến quầy báo gần nhất và nhìn năm trước. Ơn trời, vẫn cùng năm cũ. Sau đó nhìn sang ngày, tôi đọc, ngày 27/6.

Chúng tôi đã sống tại sòng bài Lotus trọn 5 ngày.

Chỉ còn một ngày nữa là đến Hạ chí. Trong vòng 1 ngày nữa, chúng tôi phải làm cho xong việc được giao.