Chương 15: Thần tốt bụng đãi bánh

Percy Jackson Tập 1: Kẻ Cắp Tia Chớp

Đăng vào: 2 năm trước

.

Chiều hôm sau, ngày mười bốn tháng Sáu, bảy ngày trước Hạ chí, tàu vào ga Denver.

Từ đêm qua, lúc tàu còn ở Kansas tới giờ, ba đứa chưa ăn. Từ lúc rời Trại Con Lai tới giờ: chưa tắm. Chắc chắn trông chúng tôi giống bụi đời.

Annabeth gợi ý :

– Tìm cách liên lạc với bác Chiron đi. Tớ muốn báo vụ cậu nói chuyện với thần sông.

– Ta đâu dùng điện thoại được.

– Có ai bảo dùng điện thoại đâu.

Suốt nửa tiếng đồng hồ, ba đứa lang thang ở trung tâm thành phố dù tôi không biết Annabeth tìm gì. Ở đây khô và nóng, còn St.Louis thì ẩm ướt. Rặng Rocky vây quanh Denver, sừng sững như ngọn sóng thần sắp ập xuống thành phố.

Cuối cùng, chúng tôi tìm được trạm rửa xe tự động vắng khách. Vừa vòng ra sau tránh xa đường lộ[20] , chúng tôi vừa quan sát xem có xe cảnh sát đi tuần không. Nếu thấy ba thiếu niên tay không lảng vảng gần trạm rửa xe hơi, cảnh sát hạng bét cũng sẽ đoán chúng tôi có ý đồ bất lương.

Thấy Grover cầm vòi xịt, tôi hỏi:

– Chính xác thì chùng ta đang làm gì đây?

Nó làu bàu:

– Những bảy mươi lăm xu. Tớ chỉ còn hai đồng hai mươi lăm xu. Annabeth có không?

Annabeth đáp:

– Đừng nhìn tớ. Nhà ăn đêm qua vét sạch túi tới rồi.

Tôi khoắng túi lấy hai mươi lăm xu, đồng tiền lẻ cuối cùng. Như vậy trong túi tôi còn lại hai đô la và một đồng vàng drachma lấy ở chỗ Medusa.

– Tuyệt vời. Theo cách này, tớ không phải bơm nước mỏi rã cả tay.

– Tớ không hiểu.

Nó bỏ xu vào máy, vặn núm “phun sương”. Tôi hỏi Annabeth:

– Grover đang làm gì vậy?

– Gửi thông điệp Iris. Nữ thần cầu vong Iris sẽ mang thông điệp tới các thần. Nếu biết nói khéo nhờ thần giúp và nếu thần không bận, nữ thần Iris sẽ giúp cả con lai.

– Gọi thần bằng vòi xịt nước ư?

Grover chỉ vòi lên trời. Màn sương trắng dày đặc phụt ra:

– Trừ khi cậu biết cách tạo cầu vồng nhanh hơn.

Đúng như Grover nói, nắng xuyên qua sương nhanh chóng biến thành cầu vòng bảy sắc.

Annabeth chìa tay:

– Đưa tớ đồng drachma.

Tôi ngoan ngoãn nghe lời.

Bạn tôi giơ đồng tiền vàng cao quá đầu:

– Xin thần nhận chút lòng thành.

Cô bé tung đồng tiền vào cầu vồng. Sau khi tan vào ánh sáng vàng, nó biến mất.

Annabeth kêu lên:

– Đồi Con Lai.

Chả thấy gì.

Giây lát sau, sau màn sương hiện lên ruộng dâu, eo biển Long Island phía xa như thể chúng tôi đang đứng trên thềm Nhà Lớn vậy. Cạnh lan can quanh thềm, quay lưng lại phía tôi là một thanh niên tóc vàng mặc quần soóc và áo thun da cam. Tay cầm kiếm đồng, anh ra chăm chú quan sát cánh đồng cỏ.

Tôi gọi:

– Luke!

Anh ngạc nhiên quay lại. Luke chỉ cách tôi ba thước chân và màn sương mỏng. Chỉ có điều tôi chỉ nhìn thấy phần cơ thể hiện trên cầu vồng.

Nụ cười tươi tắn hiện trên khuôn mặt sẹo:

– Percy! Kia có phải là Annabeth không? Ơn trời….các em không sao chứ?

Annabeth lắp bắp:

– À, ừm… không sao.

Cô bé vuốt vuốt vạt áo dính bẩn, hất lọn tóc xõa xuống trán :

– Em tưởng bác Chiron…

Nụ cười của Luke tắt ngấm :

– Bác ấy xuống dãy nhà có việc. Mấy em dưới đó gặp chuyện. Nhưng mà này, các em bình an không? Grover vẫn khoẻ chứ?

Grover giơ vòi nước lên cao nghiêng người để Luke nhìn thấy:

– Em đây. Ở trại xảy ra chuyện gì thế?

Đúng lúc ấy, một chiếc xe hơi Lincoln Continental tạt vào trạm. Tiếng nhạc hip-hop mở hết cỡ phát ra từ đầu máy stereo. Xe chạy vào ngăn bên cạnh, âm bass từ loa trầm rung chuyển mặt đường.

Luke hét lên:

– Bác Chiron thì phải… sao ồn thế?

Annabeth mừng vì có cớ tránh mặt:

– Để em lo. Grover, đi thôi.

– Cái gì? Nhưng….

– Đưa vòi cho Percy rồi ra đây.

Grover lẩm bẩm câu gì đó đại loại là con gái khó hiểu hơn cả gấu trúc Tasmanian. Nó đưa vòi cho tôi và đi theo Annabeth.

Tôi chỉnh vòi nước sao cho vừa giữ được cầu vòng,vừa nhìn thấy Luke.

Luke hét to át tiếng nhạc:

– Bác Chiron vừa can một vụ đánh nhau. Tình hình trại khá căng thẳng. Tin mật Dớt và Poseidon bất hòa bị tiết lộ. Ban quản lý trại chưa dám chắc ai loan tin gây hoang mang, nhưng anh đoán cũng tên cặn bã gọi chó địa ngục bữa trước. Giờ anh em trong trại chia bè phái. Hệt như cuộc chiến thành Troy xưa: các thần Aphrodite và Apollo ủng hộ Poseidon. Athena ủng hộ thần Dớt.

Tôi rùng mình khi nghĩ đến khả năng nhà Clarisse ủng hộ cha tôi, dù chỉ là việc nhỏ.

Tiếng nhạc ở ngăn bên nhỏ hẳn. Tôi nghe Annabeth và gã trai nào đó cãi nhau bằng ngôn ngữ lạ. Chắc là tiếng Tây Ban Nha.

Luke hỏi:

– Tình hình em thế nào? Bác Chiron nhớ em lắm đấy.

Tôi kể anh nghe gần như mọi chuyện, kể cả giấc mơ của tôi. Gặp anh tôi mừng quá nói luyên thuyên, cảm giác như được về trại hè ít phút. Không biết tôi thao thao bất tuyệt bao lâu nhưng mãi khi máy phun sương kêu “bíp bíp”, tôi mới nhớ máy sẽ dừng trong hơn phút nữa.

Luke bảo:

– Giá anh được đi với chú nhỉ? Ở đây, tụi anh không giúp gì được nhiều. Nhưng nghe này, chắc chắn Hades lấy tia chớp. Đông chí vừa rồi ông ta có lên đỉnh Olympia. Anh giám sát một chuyến tham quan và tụi anh thấy ông ấy.

– Nhưng bác Chiron bảo các thần không có khả năng tự tay lấy dụng cụ có phép thần của nhau.

Luke bối rối ra mặt:

– Đúng, đúng. Nhưng… Hades có mũ sắt tàng hình. Ai dám vào phòng đặt ngai vàng của Dớt lấy trộm tia chớp chứ? Phải tàng hình mới vào được.

Cả hai im lặng. Luke như sực nhớ nói chữa:

– Này, anh không ám chỉ Annabeth đâu nhé. Anh quen cô bé lâu nên hiểu tính. Annabeth không bao giờ… Nói thực là anh coi Annabeth như em gái.

Tôi e Annabeth không thích thế.

Tiếng nhạc ở ngăn bên tắt hẳn. Có tiếng đàn ông hoảng hốt la to, tiếng cửa đóng sập và chiếc Lincoln lủi ra khỏi trạm rửa xe.

– Chú thử ra xem chuyện gì. À này, còn mang giày anh đưa chú không? Nếu nó giúp được chú, anh cũng mừng.

Tôi thấy mình có tội khi phải nói dối:

– À…có. Tiện lắm anh ạ.

Nước tắt ngấm. Sương bắt đầu tan.

Luke nói vội, giọng anh nhỏ dần:

– Ở Denver nhớ cẩn thận đấy. Nhắn Grover đừng lo, lần này sẽ suôn sẻ hơn lần trước. Sẽ không ai bị biến thành cây thông đâu. Chỉ cần nó…

Màn sương tan hết. Hình ảnh Luke biến mất. Chỉ mình tôi trơ trọi giữa ngăn rửa xe ướt át.

Annabeth và Grover về tới. Họ cười nói hỉ hả. Grover đi lộp cộp bằng móng guốc, tay cầm đôi giày mọc cánh.

Nó nhại:

– El Diablo ! El Diablo! Annabeth này, lúc nãy cậu nói gì với họ thế?

– Lát nữa tớ nói cho nghe.

Thấy tôi, bạn ấy đứng sững. Nụ cười tắt ngấm:

– Percy, cậu sao thế? Anh Luke nói gì vậy?

Tôi nói dối mà trong lòng buồn và trống trải lạ thường:

– Chẳng có gì.Thôi mình đi tìm cái gì ăn trước đã.

***

Mấy phút sau, ba chúng tôi vào quán ăn có ánh đèn vàng vọt chọn một ngăn. Quanh chúng tôi có mấy gia đình vừa ăn hamburger, uống sô-đa và tráng miệng với đồ ngọt.

Mãi lâu sau người phục vụ bàn mới đi tới. Chị ấy nghi ngờ nhướn mày hỏi:

– Các em là….?

Tôi ấp úng:

– Chúng em… định gọi món.

– Các em có đủ tiền không đã?

Môi Grover run run. Tôi chỉ sợ nó kêu be be, hoặc tệ hơn… ăn vải sơn lót nhà. Còn Annabeth trông như sắp ngất xỉu vì đói.

Tôi cố nghĩ câu chuyện mủi lòng đem kể với chị phục vụ bàn. Thình lình cả toàn nhà rung chuyển. Tôi tưởng mình đói quá nên chóng mặt. Bên ngoài, có chiếc mô tô to bằng voi con thắng gấp bên lề đường.

Quán ăn im phăng phắc.

Đèn pha xe đỏ rực. Bình xăng xe sơn ngọn lửa cháy, hai bên đeo hai bao súng, nòng súng lấp ló miệng bao. Yên xe bọc da, nhưng da này giống da người đem thuộc.

Người ngồi trên xe có thể khiến cả chục đô vật vừa chạy vừa gọi mẹ. Ông ta mặc áo thun bó sát, quần jean đen, áo khoác da đen, cạnh đùi dắt con dao găm dài. Sau cặp kính mát màu đỏ to tướng là khuôn mặt hung ác, dữ tợn nhất tôi từng thấy: đẹp trai nhưng quỷ quyệt. Mái tóc đen vuốt sáp bóng mượt và hai má chằng chịt sẹo từ vô số lần đánh nhau. Có điều lạ là tôi thấy ông ta trông quen quen.

Ông ta vừa bước vào, một cơn gió khô nóng xộc vào mọi ngõ ngách trong quán. Thực khách như bị thôi miên đứng cả dậy. Nhưng sau cái phẩy tay của ông ta, họ lại ngồi xuống.

Mọi người trong quán trò chuyện xôn xao. Chị phục vụ bàn chớp mắt, như thể có người nhấn nút tua lại trong não chị:

– Các em có đủ tiền không đã?

Tay đua xe lên tiếng:

– Tôi đãi.

Ông ta vào ngăn chúng tôi. Không gian quá hẹp so với thân hình kềnh càng của ông nên Annabeth phải ngồi nép bên cửa sổ.

Ông nhìn chị phục vụ ngạc nhiên nhìn mình:

– Cô vẫn còn ở đây sao?

Ông chỉ tay, chị ta cứng đờ như khúc gỗ rồi xoay lung, đi xuống bếp.

Ông ta quay sang tôi. Dù không nhìn thấy mắt ông sau cặp kình màu đỏ, nhưng trong tôi sôi sục những cảm giác khó chịu. Giận dữ, tức tối, cay đắng. Tôi muốn đấm vào tường, muốn ra ngoài gây sự đánh nhau. Gã này tưởng mình là ai chứ?

Ông ta cười nhếch mép:

– Ra đây là con lão già Tảo biển?

Đáng lẽ tôi phải ngạc nhiên hoặc sợ hãi. Đằng này, cảm giác của tôi giống lúc đối mặt Gabe Cóc Chết. Tôi chỉ muốn vặt đầu gã cho hả giận.

– Ông là cái thá gì chứ?

Annabeth lườm tôi:

– Percy, ăn nói cẩn thận. Ông đây là…

Ông ta giơ tay can ngăn:

– Không sao đâu. Ta thích người có cá tính. Miễn là phải biết trên biết dưới. Này em họ, biết ta là ai không?

Giờ tôi biết vì sao ông ta trông quen quen. Gã có kiểu bĩu môi giống hệt mấy đứa ở nhà số Năm, Trại Con Lai.

– Ông là cha của Clarisse. Thần chiến tranh Ares.

Thần Ares cười nham nhở, đoạn tháo kính mát. Chỗ của cặp mắt chỉ toàn lửa. Hai hốc mắt bốc cháy như có những vụ nổ hạt nhân bé xíu liên tiếp nối nhau.

– Thằng ranh, mày đoán đúng rồi đó. Tao nghe nói mày bẻ giáo của Clarisse.

– Nó muốn thế mà.

– Chắc vậy. Mày cũng được đấy. Chuyện trẻ con đánh nhau, tao không dính vào. Tao đến đây vì… vì nghe nói mày ghé Denver chơi. Tao định gợi ý mày một chuyện.

Chị nhân viên quay lại, bưng theo ba khay đầy bánh hamburger phô mai, khoai tây chiên, hành tây, và sữa sô cô la.

Ares đưa chị mấy đồng vàng drachma.

Chị sợ hãi nhìn:

– Nhưng tiền này không…

Ares rút con dao to tướng tẩn mẩn cạo móng tay:

– Sao thế, cô em?

Hết hồn, chị cầm tiền vàng đi ra.

Tôi bảo:

– Ông không được đem dao dọa người.

Ares cười hô hố:

– Mày giỡn chắc? Tao thích xứ này. Kể từ thời Sparta, Mỹ là nơi tuyệt vời nhất. Ranh con, mày cũng mang vũ khí đấy thôi. Thế giới ngoài kia đầy hiểm hoạ. Nói đến đây ta mới nhớ vụ gợi ý. Mày phải giúp tao một việc.

– Tôi tài hèn sức mọn, sao giúp được thần thánh?

– Có chứ, giúp ta đỡ phí thời gian vì đôi ba thứ nhỏ nhặt. Tao quên mất tấm khiên ở công viên nước bỏ hoang dưới trung tâm. Chẳng là tao đang vui vẻ với… nhân tình thì bị phá ngang. Ta bỏ lại khiên ở đó. Giờ mày lấy nó về cho tao.

– Sao ông không tự đi mà lấy?

Lửa trong mắt ông ta bốc cao hơn:

– Cũng cùng lý do tao không biến mày thành chó rồi cán chết bằng chiếc Harley kia. Bởi vì tao không thích. Này Percy Jackson, thần thánh đang cho mày cơ hội khoe mẽ. Hay mày biến thành thằng hèn rồi? – Ông ra ghé sát lại. – Hay mày chỉ hung hăng khi có dòng sông đỡ bên dưới, để cha mày còn ra tay cứu mày?

Tôi muốn đấm vào mặt gã nhưng không hiểu sao tôi biết gã chỉ chờ có thế. Thần Ares rất biết chọc giận tôi. Nếu tôi nổi khùng xông vào, gã sẽ đắc ý. Tôi quyết không cho gã hả hê.

– Tụi tôi không quan tâm vì còn có việc phải làm.

Cặp mắt dữ dội của Ares bắt tôi nhìn những thứ tôi không muốn nhìn: nào máu chảy, khói lửa, xác người la liệt khắp chiến trường…

– Tao biết việc gì rồi. Lúc mới mất bảo bối, Dớt cử toàn người giỏi nhất đi tìm: Apollo, Athena, Artemis và tao, tất nhiên. Nếu tao không tìm ra món đồ lợi hại đó… – Ares liếm môi như thể ông ta khao khát khi nghĩ tới tia chớp. -Nếu tao không tìm được, mày đừng có mong. Tuy nhiên, tao cho mày cớ để nghi ngờ đây. Nói cho biết, chính tao rỉ tai Poseidon, khiến cha mày nghi ngờ lão Mồm Thối suốt ngày loanh quanh với xác chết.

– Ông vảo cha tôi rằng Hades lấy tia chớp ư?

– Còn ai vào đây nữa. Chỉ thoáng nhìn tao biết ngay Hades ném đá giấu tay, khiến Dớt tuyên chiến với Poseidon. Xét theo một khía cạnh nào đó, mày phải cảm ơn tao. Nhờ tao, mày mới được giao việc này.

Tôi làu bàu:

– Cảm ơn.

– Này, tao hào phóng lắm. Chạy giúp tao việc vặt kia, tao sẽ giúp lộ phí cho mày. Tao sẽ dàn xếp, tìm xe cho chúng mày đi về miền Tây.

– Chúng tôi tự lo được.

– Phải, chúng mày giỏi. Không tiền, không xe, không biết đối thủ của mình là ai mà đòi tự lo. Thôi giúp tao đi, biết đâu tao sẽ có thông tin mày cần. Về mẹ mày ấy.

– Mẹ tôi sao?

Gã cười nhăn nhở:

– Giờ chịu nghe rồi phải không? Công viên nước cách Delancy chừng hai cây số về phía Tây. Dễ tìm lắm. Nhớ đến Đường Hầm Tình Yêu nhé.

Tôi hỏi kháy:

– Cái gì khiến ông bỏ cuộc vui giữa chừng. Nó làm ông sợ mất mật phải không?

Thần Ares nhe nanh với tôi, nhưng tôi biết trò dọa nạt qua Clarisse rồi. Toàn làm bộ làm tịch, như thể họ che giấu nỗi lo sợ nào đó.

– Nhãi con, may mà gặp tao đấy. Vào tay thần khác thì đừng hòng. Không ai khoan dung thói hỗn xược bằng tao đâu. Xong việc nhớ quay lại đây gặp tao. Đừng làm tao thất vọng, nghe chưa?

Sau đó, chắc tôi ngất hay bị thôi miên vì khi mở mắt, trong ngăn không còn ai ngoài ba chúng tôi. Tôi tưởng cuộc nói chuyện vừa rồi chỉ có trong mơ nhưng nét mặt Annabeth và Grover cho thấy điều ngược lại.

Grover bảo:

– Không hay rồi Percy. Thần Ares tìm cậu không phải điềm lành đâu.

Tôi ngó cửa sổ. Chiếc xe biến mất.

Có thật thần Ares biết thông tin về mẹ hay chỉ đùa cợt trên sự đau khổ của tôi? Giờ ông ta ra đi, cơn giận trong tôi tan biến. Chắc chắn ông này thích làm cảm xúc con người ta rối như mớ bòng bong. Biệt tài của thần Ares là thế: Làm cảm xúc đối phương rối rắm, quay cuồng khiến họ không còn suy nghĩ sáng suốt.

– Chắc chỉ là trò chơi khăm. Kệ ông ta. Mình đi thôi.

Annabeth cãi:

– Không được. Tớ chẳng ưa gì thần Ares, nhưng ta không thể phớt lờ thần thánh trừ phi muốn rước đại họa vào thân. Ông ta dư sức biến cậu thành loại gặm nhắm.

Tôi nhìn bánh hamberger trên bàn. Thốt nhiên, nó không thơm ngậy như tôi tưởng:

– Sao ông ta cần chúng mình nhỉ?

– Chắc vì năng lực suy tưởng thôi. Thần Ares có sức mạnh. Nhưng chỉ có thế không hơn. Đôi khi sức mạnh cũng phải cúi đầu trước sự thông thái.

– Nhưng công viên nước này… điệu bộ ông ta có vẻ sợ sệt. Cái gì khiến thần chiến tranh phải bỏ chạy như thế?

Annabeth và Grover hồi hộp nhìn nhau. Annabeth bảo:

– E rằng ta phải tự tìm hiểu lấy.

***

Khi ba chúng tôi tìm thấy công viên nước, mặt trời đã xuống núi. Nhìn biển báo, tôi đoán nơi này từng có tên WATERLAND, nhưng giờ vài chữ đã rách nát, chỉ còn lại chữ WAT R A D.

Cửa chính khóa, trên cùng chăng dây kẽm gai. Bên trong, chỗ nào cũng thấy cầu trượt chưa bơm nước, ống trượt lớn nhỏ xoắn vặn nối với mấy bể bơi rỗng và khô. Vé cũ và tờ rơi vương vãi khắp mặt đường nhựa. Màn đêm dần buông khiến nơi này trông buồn thảm và rờn rợn.

Tôi nhìn mạng dây kẽm gai chằng chịt bên trên.

– Nghe nói Ares đưa bạn gái đến đây du hí. Chắc cô ta cũng thuộc loại “thứ dữ”.

Annabeth gắt:

– Percy, tỏ ra tôn trọng chút đi.

– Sao gắt tớ? Tớ tưởng cậu cũng ghét Ares.

– Dù gì ông ta cũng là thần. Với lại, tình nhân của ông ấy nóng tính lắm.

Grover đế thêm:

– Đố ai dám chê diện mạo của bà ta.

– Ai mà ghê thế? Echidna chắc?

– Không, là Arphrodite, nữ thần tình yêu.

– Tớ tưởng bà ta lấy người khác rồi. Nhớ rồi, Hephaestus.

– Cậu nói thế làm gì?

Thốt nhiên tôi muốn đổi đề tài:

– À, ta vào bằng cách nào đây?

– Maia!

Giày Grover mọc cánh.

Bay qua hàng rào, lộn một vòng trên không trung, Grover loạng choạng tiếp đất bên kia cánh cửa. Nó thản nhiên phủi bụi quần như thể đã tính toán cú nhảy từ trước.

– Sao, mấy cậu có vào không đây?

Annabeth và tôi phải leo cổng theo cách bình thường. Hai đứa thay phiên giữ dây kẽm gai cho nhau tiến từng bước.

Bóng tối dần thẫm lại, mênh mông hơn trong lúc chúng tôi tiến sâu vào công viên, xem xét các tụ điểm. Ở đây có đảo “Coi Chừng Bị Cắn Chân”, khu vui chơi “Khéo Đụng Đầu” và góc “Đồ Bơi Của Tôi Rơi Đâu Rồi?”

Không thấy yêu quái rình mò. Xung quanh im lặng như tờ.

Chúng tôi đến quầy lưu niệm cửa mở toang. Hàng hóa vẫn chất đầy trên kệ: quả cầu tuyết, bút chì, bưu thiếp và dãy móc treo….

Annabeth reo lên:

– Quần áo sạch.

Tôi nhắc:

– Phải. Nhưng cậu không được…

– Thế ư? Nhìn đây.

Ôm hết quần áo trên dãy móc dài, Annabeth biến mất trong phòng thay đồ. Mấy phút sau, bạn ấy trở ra với quần soóc in hoa, áo thun đỏ in chữ Waterland và đôi giày thể thao mang tên khu vui chơi. Annabeth đeo trên vai ba lô căng phồng in logo của công viên nước. Rõ ràng bên trong còn rất nhiều quần áo khác.

Grover bảo tôi:

– Thoải mái đi.

Lát sau, cả ba đều ăn mặc như dụng cụ quảng cáo biết đi cho công viên bị xóa sổ từ lâu.

Chúng tôi tiếp tục tìm Đường Hầm Tình Yêu. Tôi có cảm giác cả công viên đang nín thở.

Cố quên bóng tối ngày càng quánh lại, tôi gợi chuyện:

– Vậy… Ares và Aphrodite có quan hệ với nhau?

Annabeth đáp:

– Nghe đồn thế. Từ ba ngàn năm trước cơ.

– Thế còn chồng Aphrodite?

– Cậu biết rồi, thần Hephaestus là thợ rèn. Mới lọt lòng chưa được bao lâu đã bị thần Dớt quẳng từ đỉnh Olympia xuống nên bị tật nguyền, què quặt. Vậy không thể gọi là đẹp trai được. Tuy ông ấy khéo tay nhưng Aphrodite không thích thú gì trí thông minh và tài năng hết.

– Bà ấy thích dân đua mô tô.

– Đại khái thế.

– Hephaestus biết chuyện không?

– Biết chứ. Một lần ông dùng lưới vàng bắt cả hai, sau đó mời các thần tới chứng kiến nhằm bêu rếu cặp tình nhân. Từ trước đến giờ, Hephaestus luôn nghĩ cách làm họ xấu hổ. Thế nên muốn gặp nhau họ phải tìm nơi kín đáo, như…

Annabeth dừng phắt lại, nhìn thẳng phía trước.

– Như chỗ kia kìa.

Trước mặt chúng tôi là hồ cạn khô. Chắc lúc trước là sân trượt băng rất đẹp. Nó hình tròn, đường kính ít nhất năm chục mét.

Xung quanh sân trượt bài trí hơn chục tượng thần tình yêu Cupid có cánh bằng đồng giương sẵn cung tên. Đối diện chỗ chúng tôi đứng là đường hầm hun hút, có lẽ là chỗ tháo nước khi hồ đầy. Bảng phía trên đề: HÀNH TRÌNH LY KỲ CỦA TÌNH YÊU – đây KHÔNG phải Đường hầm Tình yêu của cha mẹ bạn.

Grover rón rén đến gần mép hồ:

– Nhìn kìa.

Dưới đáy hồ cạn khô có chiếc thuyền nhỏ sơn màu hồng và trắng. Mui thuyền có dù che. Khắp thuyền vẽ đầy trái tim xinh xinh. Trên ghế trái có một vật tròn bằng đồng sáng mờ do phải chiếu ánh sáng lúc trời nhập nhoạng: khiên của thần Ares.

– Sao dễ thế? Chỉ cần xuống lấy là xong.

Annabeth rà đầu ngón tay lên bệ tượng Cupid gần nhất.

– Ở đây có khắc chữ Hy Lạp: Êta. Không hiểu….

Tôi hỏi:

– Grover này, cậu có ngửi thấy mùi yêu quái không?

Grover hít hà:

– Không.

– Lúc ở Gateway Arch, cậu cũng bảo không có yêu quái. Lần này thì sao?

Grover tự ái:

– Tớ đã bảo đó là chó địa ngục mà.

Tôi lấy can đảm:

– Thôi, xin lỗi nhé. Để tớ xuống.

– Tớ đi với cậu.

Nói thế nhưng Grover có vẻ không hào hứng lắm. Tôi đoán Grover cố xí xoá

vụ bỏ tôi lại một mình trên Gateway Arch.

– Không, tớ muốn cậu tận dụng tối đa giày bay. Tớ cần cậu hỗ trợ, nhất là lúc có sự cố.

Grover ưỡn ngực:

– Có tớ đây. Nhưng sự cố nào chứ?

– Tớ không biết, chỉ linh tính thế thôi. Annabeth đi với tớ…

– Cậu điên à?

Cô bạn nhìn tôi từ đầu đến chân như thể tôi vừa ở cung trăng rơi xuống. Hai má Annabeth đỏ bừng.

Tôi quạu:

– Sao thế?

– Tớ đi với cậu vào Đường Hầm Tình Yêu ư? Ngượng chết được. Nhỡ ai nhìn thấy thì sao?

– Làm gì có ai?

Nói thế chứ tôi cũng ngượng chín mặt. Sao con gái hay rắc rối thế nhỉ?

Tôi bảo Annabeth:

– Được rồi. Tớ tự làm lấy.

Nhưng thấy tôi bước xuống hồ, bạn ấy cũng đi theo, miệng lẩm bẩm rằng con trai chỉ lắm chuyện lằng nhằng.

Chúng tôi đến bên thuyền. Chiếc khiên dựng trên một ghế. Bên kia có khăn quàng cổ bằng lụa.

Tôi tưởng tượng thần Ares và Aphrodite trong khung cảnh này: Hai vị thần gặp nhau trong công viên nước bỏ hoang. Tại sao phải thế? Vừa lúc đó tôi nhận thấy chi tiết mà lúc đứng phía trên tôi không thấy: quanh hồ gắn đầy gương. Tất cả đều chiếu thẳng vào thuyền. Dù nhìn đi đâu, tôi cũng soi gương được. Ra vậy. Trong lúc ân ái mặn nồng, Ares và Aphrodite vẫn ngắm người yêu qua gương.

Tôi cầm khăn quàng cổ lên xem. Chất liệu vải mỏng, hồng nhạt thơm mùi hoa hồng hoặc cây nguyệt quế mọc trên núi. Tôi mơ màng cười nụ, suýt áp khăn lên má. Annabeth giật vội,nhét khăn vào túi:

– Chớ! Đừng động vào bảo bối tình yêu chứ!

– Cái gì?

– Đồ óc tảo biển, lấy khiên rồi đi thôi.

Tay vừa chạm khiên, tôi biết ngay có sự chẳng lành. Bàn tay tôi vừa xuyên qua một thứ nối khiên với bảng điều khiển của xuồng máy. Tôi tưởng mạng nhện, nhưng khi giơ tay lên nhìn kỹ, hóa ra đó là dây kim loại rất mảnh, mắt thường gần như không nhìn thấy được. Một đoạn dây bẫy.

Annabeth ngăn:

– Khoan đã.

– Không kịp rồi.

– Mạn xuồng có chữ Êta, giống như kia. Ta mắc bẫy rồi.

Thình lình, bao âm thanh nhất loạt vang lên như thể có hàng ngàn bộ phận đồng thời khởi động. Cả hồ nước biến thành cỗ máy khổng lồ.

Grover hét:

– Các cậu ơi, coi chừng!

Quanh thành hồ hình tròn, tượng Cupid giơ cung ngắm bán. Tôi chưa kịp kêu Annabeth tìm chỗ nấp, họ đã nhả tên. Nhưng họ không bắn chúng thôi mà bắn lẫn nhau: Tượng bên này bắn sang thành hồ đối diện. Những sợi dây kim loại mảnh theo mũi tên găm sang bờ bên kia tạo thành hình hoa thị bằng vàng. Sau đó, những sợi chỉ kim loại nhỏ xíu tự đan vào nhau dệt nên tấm lưới khổng lồ.

Tôi phát hoảng:

– Ta phải thoát ra.

Annabeth đáp:

– Không được.

Chộp lấy cái khiên, tôi và Annabeth bỏ chạy. Nhưng chạy lên thành hồ dốc và trơn khó hơn đi xuống.

Grover giục:

– Nhanh lên!

Nó cố vạch lưới chừa lỗ hổng cho chúng tôi chui ra, nhưng những sợi chỉ vàng tự động quấn lấy bàn tay nó.

Đầu các Cupid mở ra.Máy ghi hình từ đó nhô lên. Quanh hồ, đèn pha mọc lên làm chúng tôi lóa mắt.Tiếng loa oang oang:

– Truyền hình trực tiếp lên đỉnh Olympia sau một phút… năm mươi chín giây… năm mươi tám….

– Hephaestus! Tớ ngố quá đi. Êta là chữ H. Thần làm bẫy này để bắt quả tang vợ và thần Ares. Giờ máy quay sắp truyền hình trực tiếp tớ với cậu lên đỉnh Olympia. Mình thành lũ hề mất rồi.

Chúng tôi sắp lên đến miệng hồ. Bất ngờ, những tấm gương mở lên như cửa cống. Hàng ngàn con gì bằng kim loại nhỏ xíu tràn vào.

Annabeth hét toáng lên.

Dòng chảy của những con vật ghê rợn tuồn vào mãi: mình bằng đồng, tám chân khẳng khiu và miệng nhỏ ngáp liên tục. Chúng vây quanh Annabeth và tôi tạo nên âm thanh loảng xoảng.

Annabeth kêu la:

– Nhện! A…a…a

Tôi chưa từng thấy Annabeth hoảng loạn như thế. Cô bé kinh hoàng ngã ngửa, suýt bị lũ nhện rôbốt chôn vùi nếu tôi không nhanh tay kéo lên và lôi về phía thuyền.

Lũ nhện tràn ra từ quanh miệng hồ. Hàng triệu con bò lổm ngổm tới giữa hồ, vây kín chúng tôi. Tôi tìm cách trấn tĩnh bằng cách tự nhủ rẳng: Người ta không lập trình lũ nhện với mục đích giết người. Chúng chỉ vây hãm, cắn đớp và biến chúng tôi thành lũ ngốc. Một lần nữa, chúng tôi sa bẫy chuyên dành cho các thần. Rủi thay, Annabeth và tôi không phải thần thánh. Chúng tôi leo lên xuồng. Tôi vung chân đuổi lũ nhện bắt đầu tràn vào lòng xuồng. Tôi gào thét kêu Annabeth giúp đỡ nhưng bạn tôi quá hoảng loạn, ngoài gào thét ra không biết làm gì hơn.

Loa lại tiếp tục đếm ngược:

– Ba mươi, hai chín….

Lũ nhện nhả tơ kim loại, trói chặt chúng tôi. Sợi tơ rất mảnh, lúc đầu giật dứt dễ dàng. Nhưng sau quá nhiều dây bện lại, đồng thời lũ nhện vẫn tiếp tục tuôn đến. Tôi đá một con bò lên chân Annabeth. Nó quay lại cái một miếng giày thể thao mới tinh của tôi.

Đôi giày thần đưa Grover bay là là trên hồ. Nó cố kéo cho lưới nới lỏng ra, nhưng không ăn thua.

Tôi tự nhủ: “Nghĩ cách đi chứ!”

Lối vào Đường Hầm Tình Yêu dưới tấm lưới. Nó là lối thoát nếu không có hàng triệu con nhện máy cản đường.

Loa vẫn đếm:

– Mười lăm,mười bốn….

Tôi tự hỏi: “Nước. Nước chảy vào đường hầm này đâu?”

Và rồi tôi đã thấy. Mấy ống nước khổng lồ sau hàng gương. Nhện tuôn ra từ đó. Trên tấm lưới, cạnh một tượng thần Cupid là buồng nhỏ gắn cửa sổ kính. Chắc chắn bảng điều khiển trong đó.

Tôi gọi lớn:

– Grover! Vào buồng đi. Tìm nút ON.

– Nhưng….

– Làm đi.

Hy vọng ấy thật ngông cuồng nhưng là cơ hội duy nhất. Annabeth vẫn điên cuồng gào thét.Tôi phải tìm cách thoát cho cả hai.

Grover vào buồng điều khiển thử vài nút nhấn.

– Năm, bốn….

Grover ngẩng lên tuyệt vọng nhìn tôi, giơ cả hai tay. Tôi biết nó đã thử mọi nút nhưng vô vọng.

Nhắm mắt, tôi mường tượng cảnh sóng nước, dòng chảy siết, sông Mississippi. Cảm giác rất đỗi thân quen tràn về. Tôi hình dung mình lôi cả đại dương đến với Denver.

– Hai, một, ZERO!

Nước xối ào ào từ miệng ống nước. Dòng chảy ào ạt đổ vào bể nhanh chưa từng thấy, cuốn trôi lũ nhện như quét sạch bụi li ti. Lôi Annabeth lên ghế bên cạnh, tôi vừa thắt dây an toàn cho bạn xong, sóng lớn đã xô mạnh xuồng, hất lũ nhện ra ngoài, làm chúng tôi ướt hết nhưng xuồng không lật. Chiếc xuồng quay đầu, theo nước dâng lên xoay tròn giữa hồ nước xoáy.

Dưới nước nhung nhúc lũ nhện máy hỏng. Nhiều con bị sóng đánh vào tường xi măng mạnh đến nỗi chúng vỡ tan tành.

Đèn pha tập trung vào hai đứa tôi. Mấy máy ghi hình kêu xè xè, truyền hình trực tiếp lên đỉnh Olympia.

Nhưng đầu óc tôi dồn cả vào việc lái xuồng. Tôi muốn nó trôi theo dòng và không va vào tường. Chắc chắn do trí tưởng tượng quá phong phú nên tôi thấy xuồng làm theo ý tôi. Ít nhất cả người lẫn xuồng không bị dập nát thành triệu mảnh. Xuồng xoay vòng lần cuối, lực nước đủ cao đưa chúng tôi xuyên thủng mạng nhện kim loại. Sau đó xuồng quay hướng về đường hầm, đưa chúng tôi lao vút vút vào bóng tối.

Annabeth và tôi hét thất thanh, ôm chặt nhau những lúc xuồng đến khúc cua gắt, góc hẹp và lao từ độ dốc bốn mươi lăm độ, băng qua hình vẽ Romeo và Juliet cùng đủ loại tranh ảnh tình tứ khác.

Ra khỏi đường hầm, gió đêm thổi bạt tóc chúng tôi. Chiếc xuồng phóng thẳng đến lối ra.

Đúng ra, xuồng sẽ xuống đoạn dốc giữa hai Cánh Cửa Tình Yêu rồi dừng an toàn ở hồ nước cuối chặng gần lối ra. Nhưng chúng tôi không gặp may. Cánh Cổng Tình Yêu có khóa dây xích. Trước đó có hai xuồng cũng bị chặn lại sau khi rời đường hầm. Giờ chúng thành chướng ngại vật: một chiếc đầy nước, chiếc kia bể làm đôi.

Tôi thét bảo Annabeth:

– Tháo dây an toàn đi!

– Cậu điên à?

Tôi lồng khiên của thần Ares vào cánh tay:

– Cậu muốn chết tan xác không? Ta sẽ nhảy khỏi xuồng.

Sáng kiến của tôi đơn giản mà ngông cuồng: Khi xuồng đụng vật cản, chúng tôi sẽ dùng nó làm lò xo nhảy qua cổng. Tôi nghe nói nhiều người gặp tai nạn xe mà thoát chết nhờ cách đó. Họ văng xa cách chỗ xảy ra tai nạn cả mười, mười lăm thước. Nếu may mắn, chúng tôi sẽ ngã vào bể nước.

Hình như Annabeth hiểu ý tôi.

Khi xuồng đến gần cổng, cô bạn nắm chặt tay tôi.

Tôi dặn:

– Cứ làm theo tớ!

– Không! Cậu trông tớ mà làm!

– Cái gì?

– Kiến thức vật lý đơn giản! Theo đường đạn đạo thì…

– Rồi! Theo cách của cậu đi.

Annabeth ngập ngừng, kềm chế rồi hét lên:

– Nhảy!

RẮC!

Annabeth tính đúng. Nếu nhảy theo ý tôi, cả hai sẽ văng mạnh vào cánh cửa.

Annabeth tính lực tối đa cho cú nhảy của cả hai.

Rủi thay, lực hơi lớn hơn cần thiết một chút.

Xuồng chúng tôi đâm sầm vào đống xuồng vỡ. Annabeth và tôi bay giữa trời: qua cánh cổng, qua hồ nước và lao xuống mặt đường nhựa.

Con gì túm sau áo tôi.

Annabeth la:

– Úi!

Grover!

Lơ lửng giữa trời, một tay nó nắm áo tôi, tay kia lôi cánh tay Annabeth cố không để chúng tôi ngã xuống đường nhưng lực quán tính của chúng tôi quá lớn.

Grover than:

– Hai người nặng quá. Ta ngã mất.

Chúng tôi cùng lao xuống đất. Grover cố hết sức làm giảm lực va chạm từ cú tiếp đất.

Ba đứa đâm thủng tấm bìa cứng tạo cảnh chụp hình. Đầu Grover xuyên qua lỗ có cảnh trong phim Noo-Noo và Cá Voi Thân Thiện. Annabeth và tôi nằm sóng soài dưới đất, bị đau nhưng còn sống. Khiên của thần Ares vẫn dính cánh tay tôi.

Cách đó chừng ba mươi mét, tại hồ nước cạnh cổng vào, máy quay của thần Cupid vẫn hoạt động. Tôi quay lại nhìn. Sóng ở Đường Hầm Tình Yêu đã dịu lại. Xuồng chúng tôi vỡ tan, bập bềnh gần cổng sắt.

Tôi hét lên:

– Chương trình đến đây kết thúc. Cám ơn quý vị xem đài! Chúc ngủ ngon!

Hơn chục tượng thần tình yêu Cupid về tư thế ban đầu. Đèn tắt ngóm. Công viên lại im ắng và tối tăm, ngoại trừ tiếng nước nhỏ giọt tong tong ở hồ gần lối ra.

Tôi bâng quơ tự hỏi truyền hình trên đỉnh Olympia có nghĩ quảng cáo hay chuẩn bị bình chọn cho show diễn vừa rồi.

Tôi ghét bị trêu chọc. Tôi ghét bị lừa bịp. Tôi có cả kho kinh nghiệm đối phó với những tay chuyên đi bắt nạt dám giở những trò đó với tôi.

Giơ cao tấm khiên trên cánh tay, tôi quay sang bảo bạn:

– Mình có chút chuyện cần nói với thần Ares.