Hồi 19: Oan Tình Khởi Kết Nữ Tặc Cờ Đen Ăn Thịt Người Yêu

Nữ Tướng Miền Sơn Cước

Đăng vào: 2 năm trước

.

Oan Tình Khởi Kết
Nữ Tặc Cờ Đen Ăn Thịt Người Yêu
Súng nổ loạn biên thành. Dân gian dắt díu nhau chạy như vịt, tìm nơi ẩn nấp, các sắc dân đi xem trảm ngã sấp ngã ngửa, giày xéo lên nhau, túa ra các ngả như ong vỡ tổ, cản cả chân ngựa, lính tráng hét khan cổ không kìm hãm nổi. Đội vệ binh thủ túc hộ tống bọn lão tướng Tây cùng đám văn võ quan khách cao cấp lên một ngọn đồi gần pháp trường, nơi đặt sẵn một viễn vọng đài bí mật trên ngọn cây rậm.

Mặt đỏ gay, viên giám binh Cao Bằng khoa kiếm như điên, chạy ngựa ngược xuôi, hô lệnh truy sát luôn miệng.

Bỗng có tiếng trên viễn vọng đài vọng xuống:

– Bụi cuốn mù mịt phía Tây Bắc! Chạm súng dữ!

Lão tướng De Monstre chiếu ống dòm quan sát, không nói nửa lời. Xa xa, tiếng súng nổ rền mấy ngả, chuyển từ Nam lên Bắc, lại từ Đông Bắc sang. Chợt khói hiệu bay vút cao.

Ngay lúc đó, viên trung tá chỉ huy đội kỵ binh Lê dương dưới đồi phi lên:

– Đánh lớn phía Bắc thành phố! Giặc chiếm hai thiết xa, bắn loạn bậy! Phải hạ gấp! Xin thiếu tướng cho lệnh!

Lão tướng biên thùy cau mày, tức giận:

– Bản chức đã truyền không được đánh trong tỉnh! Chó cùng dứt giậu, hại dân! Bám riết, nhưng cứ để chúng ra khỏi tỉnh, ngoài đã có phục binh, chạy đâu thoát! Chuyển mau!

Dứt lời, lão tướng Tây cùng một đám văn võ quan giục ngựa, dẫn đội Lê dương tinh nhuệ, phi về nẻo súng nổ dữ. Đến nơi thấy xác chết còn nằm ngổn ngang, súng vừa im, viên giám binh Cao Bằng đang hét như sấm. Lúc đó mới hay cánh quân Phi Mã Biệt Sơn của Bạch Ma Nữ đuổi Cờ Đen, gặp bọn Đa Sát Thủ, đánh nhầu, cuốn tới ngả ba, lại gặp binh xà cạp trắng trên mái bắn xuống, mấy đám đánh lộn. Một cánh Cờ Đen khác xiên đến, cuốn nhau đi như giông.

Lão tướng De Monstre dẫn binh tiến ra một ngã tư, sực gặp hai cha con tuần phủ họ Cung đảo ngang tới. Miệng còn dính máu tươi, Giáo nghiến răng, giọng đầy tiếc hận:

– Hung phạm cướp con giặc cái vừa qua đây. Người Sam đánh xe tới đón!

Không ngờ hung phạm lại là Lê Thái Dũng!

Tất cả đám văn quan võ tướng đều trợn mắt “ồ” kinh ngạc. Hàn Tố Liễu nhíu mày:

– Đêm qua mụ Dâm cướp tay trên, sáng nay cho ức trào máu họng! Cho nhà nước biết tài Mã Yên Sơn! Thiết Mộc đội theo ta!

Rập! Hơn 20 nữ đầu mục vọt lên, phi dọc theo tả hữu Hàn nương theo hình mũi tên, lá chắn sắt che kín người, mỗi ả quay tít một sợi xích dài có móc nhọn.

Sau mỗi ả, lại kèm một tay súng trận.

Từ diện thụ địch, tiến thoái lưỡng nan, Thái Dũng đặt vội Long Nữ vào góc xe, nhìn nàng thăm thẳm:

– Dâm, Tình hai mặt. Tây Quỷ đuổi theo… khó thoát!

Long Nữ nhìn chàng như hút:

– Công tử lăn vào lửa đạn… Nên bảo trọng lấy thân… Đừng vì thiếp…

Xe chạy lắc lư muốn đổ ngay lúc đó, có tiếng thét lảnh:

– Dừng lại! Kháng cự nát đầu! Cờ Đen!

Lóe mưu, Thái Dũng tiến ra bên cửa, nói lớn:

– Mỗ có lời chào cố nhân! Bấy lâu mạnh giỏi chớ? Cờ Đen nào đâu? Mỗ đây mà!

Hàn Tố Liễu mở to mắt nhìn, vừa thấy mặt Trại Phan An, nữ tặc Pi-A-Uác vùng kêu lên hớn hở, mặt lẳng tình tươi như hoa nở đêm xuân:

– Trời! Phu quân! Bao ngày cách biệt, sao lại lạc giữa rừng gươm? Con nhỏ

Cờ Đen đâu?

– Đông Quân đem đi rồi! Mỗ được người Sam cứu, thấy xe hoang đi liều!

Vó câu vụt tới, Tuyệt Tình Nương vùng quát lớn:

– Bay đâu! Ngăn mụ quỷ dâm mau! Không để đứa nào động đến Soái gia

Công tử! Dàn “Võ Minh Trận”!

Giặc núi “dạ” ran. Lập tức Tuyệt Tình Nương cùng đội quân lá chắn bay lên.

Rập! Đã tràn đến gần xe. Tuyệt Tình Nương rút trong mình ra mấy trái tạc đạn hỏa mù, cùng thủ hạ, ném lia lịa về phía Bạch Ma Nữ. Hàng loạt tiếng nổ liên tiếp, tức thì hàng loạt khói dâng lên hóa một bức thành sa mù chắn trước ngựa Phi Mã Biệt

Sơn. Bạch Ma Nữ cùng quân gia vội dạt ngựa ghìm cương, sợ có tạc đạn phá, giận xung thiên thét lớn:

– Ai trong góc đó?

Thái Dũng tiến ra bất thần, nắm ngay tay súng nàng. Nhưng nữ tặc đã để ý, đảo tay tránh, vẫy luôn vào góc xe. Tình thế quá gấp, Thái Dũng bèn xòe tay chặt một nhát, thuận chân lia luôn một đường cước dữ, gạt bắn Hàn xuống đất. Ngay lúc đó, trên mui, mụ Ma Trảo đã giơ tay súng véo một loạt, đứt phựt dây móc, quất xe xuống đồi.

Bộp! Trái tạc đạn mù thả sát cửa xe. Thái Dũng ôm Long Nữ lao vút ra ngoài như tên bắn hạ xuống nương cây êm ru. Vừa lúc Hàn Tố Liễu nhỏm dậy được, phóng theo xe, hô quân đuổi miết. Nhưng xe lao một quãng đến chỗ rậm, Ma

Hình đã phóng ra, Ma Trảo lao phắt ngay lên cổ, cứ thế chạy như gió mặc chiếc xe vô chủ chuyển bánh như điên.

Chừng khói tan trận dẹp, Dâm, Tình hai nàng bắt được xe, bọn tướng Tây kéo tới kịp, chỉ còn nước dậm chân hậm hực, đành chia binh đuổi bừa các ngả.

Nhưng Thái Dũng cõng Long Nữ đã xuyên bụi nương rừng chạy như cơn lốc, thoáng đã đến chỗ buộc ngựa.

Chàng bồng nàng nhảy phóc lên lưng kỵ mã Huyết Phong Câu hý vang lừng, sải gió bay đi như Xích Thố của Quan Vân Trường, theo sơn lộ phút chốc đã bỏ lại sau lưng cả một vùng biên thành náo loạn, tới một miền sơn kỳ thủy tú, hạ nguồn chi nhánh Tây Giang.

Mặt trời ló dạng. Con sông Băng như dải lụa bạch vắt giữa sơn lâm. Bốn bề quạnh quẽ, rải rác bóng nhà thổ dân lưng đồi.

Thái Dũng tế luôn ngựa xuống sông. Ngạc nhiên, Long Nữ quay lại khẽ hỏi:

– Công tử định đưa thiếp đi đâu?

– Nhà nước sẽ cày nát sơn khê, truy tầm dấu vết. Bên kia sông có một cái hang, cô nương cần tĩnh dưỡng ít giờ, hoàn nội lực trước khi về núi!

Long Nữ cảm kích, im lặng. Con kỵ mã xé nước lội qua sông, chỉ ướt nửa bụng dưới. Phút chốc đã vượt Bằng giang, chạy chếch tới một rặng núi đá chập trùng.

Vụt thoảng âm phong lạnh lẽo. Long Nữ chạy xế sau giật thót người, đã thấy tay Quang Sát phất một cái nháng như chớp lóe, chụp xuống đầu Thái Dũng.

Quá bất ngờ, chàng chỉ kịp hụp tránh. Véo! Ngân quang xẹt đứt phăng chỏm khăn lẫn nắm tóc bay la tả. Rất lẹ, chàng phất vụt tay áo. Vút một cái, luồng hắc quang phóng ra quật véo vào luồng ngân quang.

Chát! Ngân quang bắn ra ngoài. Lão soái Cờ Đen sửng sốt, muốn chồn tay, đảo một cái, đã kẹp giữa hai ngón một lưỡi tiểu kiếm sáng quắc.

Vùng lắc mình một cái nữa, đã xẹt ra xa hơn mười thước. Như con cọp dữ,

Thái Dũng thét lớn, vận điện công, chém xả theo! Vèo! Rắc! Chát! Luồng kiếm khí đen phạt hình cung, lia tiện phăng cả một thân cây, chỏm đá ngoài ba mươi thước, hốt luôn một mảng mũ trụ Đông Quân. Lão soái chúa Phi Mã Ác vọt ra xa, đúng lúc kiếm khí đen đảo vòng thúng tìm địch.

Vừa đảo bộ, chúa Cờ Đen quay phắt lại, đánh vụt tay phải, lưỡi tiểu kiếm bay ra thế tuyệt kỹ quất trúng luồng hắc khí.

Nghe chát một tiếng tóe lửa, hắc khí bắn lộn lại thoáng thêm hai tiếng “keng keng” rồi tắt phụt.

Nhìn lại đã thấy một lưỡi kiếm đen gẫy làm đôi rớt xuống thạch bàn xế cửa hang!

Thái Dũng thất kinh, chợt hiểu. Thì ra chàng đã rơi vào kế hiểm của Đông

Quân. Tuy nội lực sung mãn dị thường, nhưng về võ lực, kiếm phong mới luyện được vài tháng, nội 20 bộ, điện lực mạnh tợn thả kiếm như vũ bão, nhưng ngoài 20 bộ, điện lực phân loãng, đến 40 bộ, chàng càng hao tản, vì phép phóng kiếm bằng điện lực chẳng khác phép vô tuyến điều khiển, càng phóng xa, càng phải quy tụ điện khí cho gọn, mạnh, nên cứ mỗi thước xa, phải luyện một thời gian, đạt mức chém xa, đến 40 bộ, dẫu điện lực tích lũy hàng kỷ niên cũng phải mất bốn năm trăm ngày là ít. Thái Dũng cũng từng được Thần Quân, Xà Nữ chúa căn dặn, nhưng thấy cừu nhân, sôi máu hận, quên hết, lại thấy nhát trước đánh bạt được ngân quang, tin lực mình, không nhớ đến khoảng cách sinh tử.

Nhưng lão chúa soái Cờ Đen túc trí đa mưu, thừa sát nghiệp đã nghĩ ngay tới dụng ý nhử địch. Cạm bẫy giương ra, biết đã muộn! Ngay sao lúc chém gãy kiếm đen, lão chúa Cờ Đen đã đảo vụt tay, chém vèo một đường tối hiểm.

Tay không, Dũng liếc vội về phía con ngựa Huyết Phong Câu buộc phía hữu, gần đấy, cây súng gậy song treo trên yên. Nhưng ngân quang đã lia véo ngang cổ.

Dũng chỉ kịp ngồi thụp xuống, may trước mặt lại có thân cây đổi ngân quang phải phạt qua cành lá, hơi chậm vận tốc chỉ bay trốc đầu chàng lạnh buốt âm phong.

Long Nữ biết rõ tầm lợi hại ghê gớm của kiếm khí Đông Quân vùng kêu thống thiết:

– Trời! Chớ giết chàng! Cha!

Tiện đứng gần con ngựa, nàng vớ luôn lấy chiếc gậy song ném cho Dũng.

Chàng trai chụp cây gậy, quật vào ngân quang, thoáng nghĩ:

– Mệnh treo sợi tóc nếu không cửa tử đoạt khoảng cách. Súng cũng không kịp nữa!

Và lắc mình, vọt rạp ra phía Đông Quân.

Ngờ đâu lão chỉ chờ có thế! Vùng phát giọng âm trầm gay gắt:

– Nhỏ họ Lê! Mày đến ngày tận số!

Tay phải đảo vòng bán nguyệt, giật kiếm về, tay trái phất một cái. Một ánh ngân quang nữa vụt lóe lên chém xả vào Thái Dũng, đúng lúc chàng chưa kịp hạ chân.

Chỉ nghe “Soạt” như tiếng xé lụa ngân quang đã chụp xuống. Long Nữ chỉ kịp thét lên một tiếng “Trời” thống thiết, trông ra cả một mảng áo vai Dũng đã bị chém bay, hớt theo một miếng thịt bằng góc bàn tay! Chàng trai vật người xuống, lăn vèo một vòng vào bên phiến đá gần đấy.

Mảnh thịt, áo bắn tung dính hết vào ngay ngực Long Nữ. Cô gái thốt lên bất kể nguy hiểm, chân đau chạy bổ lại phía Dũng, chỏm vai lóe máu đầm đìa.

– Mày phải chết! Kiều! Tránh ra!

Cả hai luồng kiếm khí thừa thắng cùng đảo xẹt lại như tên bắn. Thái Dũng nghiến răng, vung tay ba toong đẫm máu, quật liều vào hai lưỡi kiếm. Nhưng kiếm phong, sức vận tốc còn hơn cả kiếm chém tay, tên bắn, có thể ngang với tên nỏ ta, gậy gạt không trúng hẳn, một người chém vào đầu gậy một lưỡi luồn đường gậy, xả xuống. Nhưng đúng lúc đó, Thiên Kiều đã lao tới vươn tay ôm lấy chàng, cản ngay giữa đường kiếm đi. Giật mình lão chúa soái giặc Cờ Đen vội vận hết kình lực đảo dạt tay ra. Ngân quang nháng trốc đầu hai người trẻ oan gia, hớt phăng mấy sợi tóc búi ngược đỉnh đầu nàng nữ tặc Cờ Đen. Đông Quân hét:

– Kiều! Tránh ra! Ta lấy đầu thằng oan nghiệt!

Bất kể nguy hiểm Thiên Kiều ôm luôn lấy bờ vai người tuổi trẻ thấy máu ướt đầm, nàng rú lên, quay phắt lại, giang rộng tay, nhìn lão Cờ Đen, rung giọng đã lạc đi hẳn vì xúc động:

– Chớ giết chàng! Cha! Chàng vừa cứu con!

Kiếm khí xẹt trốc đầu hai người, lạnh buốt âm phong. Thiên Kiều ngửa mặt dáo dác xoay theo ánh kiếm, tay run run giật mảng thịt Dũng dính bết trước ngực hoa, và trước cặp mắt kinh dị của lão chúa soái Cờ Đen, cô gái Phi Mã Ác Sơn đút luôn mảnh thịt vai nóng hổi của chàng trai họ Lê vào miệng nuốt chửng!

Buông tay ra, vành môi cung đỏ lòm máu tươi!

Trong mấy khắc, cả hai người đàn ông, lặng hẳn người đi kinh ngạc. kiếm khí lờ đờ giảm hẳn sức vận tốc, lảo đảo mấy vòng rồi vụt tắt. Cùng lúc cả hai nghĩ đến chuyện xưa. Sở Cung Vương đánh nước Tấn, bị Ngụy Kỳ bắn trúng mắt, Hạ

Hầu Đôn đánh Thục bị Quan Võ đâm lòi con ngươi, đều giật ra nuốt chửng “tình cha huyết mẹ”! Còn Thiên Kiều….

– Trời! Cô nương… Em

– Thiên Kiều! Đến thế ư? Thì ra mày… mày đã… phải lòng thằng nghiệt súc! Nghiệp chướng! Gái họ Võ mê trai họ Lê! Lùi mau! Không tao chém cả mày!

Thiên Kiều đưa tay lau miệng, tay đỏ lòm, miệng đỏ lòm, lắp bắp, mắt phượng nhìn cha thăm thẳm, xót xa càng như gai đâm ruột Đông Quân, giáng vào tận chiều sâu tâm hồn bí ẩn của lão chúa soái giặc Cờ Đen một nhát búa phũ phàng.

– Nghịch tử! Tránh ra!
Long Nữ vẫn đứng cản che cho Thái Dũng, cả hai lùi dần, Đông Quân thét lên một tiếng u trầm, vung tay phải. Ngân quang chém xả vào hai người, nhưng tự nhiên cả khung giáp sắt bỗng rung lên loảng xoảng, lớp vẩy phập phồng theo hơi thở phào mất động, lão nâng vội đà tay. Kiếm xé gió lướt trốc đầu hai người bay lộn lại. Lão lắc mình một cái xẹt luôn tới đẩy luôn ngọn kiếm trái vào ống sắt, tay xòe đẩy luôn một nhát kình phong quét dạt Long Nữ sang bên, tay kia thả vụt kiếm ra.

Thái Dũng hụp tránh vung gậy đỡ. Nhưng… không kịp! Kiếm đảo xẹt phóng thẳng vào cổ chàng trai.

Long Nữ rú lên, nhắm nghiền mắt lại. “Chát” một tiếng khô dòn, tiếp liền xé gió cực mạnh rồi im lịm

Chừng mở mắt trông ra, chỉ còn kịp thấy loáng hai vệt trắng tắt phụt hai phía.

Theo vệt sáng phía hữu, vụt xuất hiện một hàng ba bóng lạ, mười phần uy mãnh, sừng sững như một ghềnh đá lớn như ba pho tượng thép.

Một người khăn nhiễu Tam giang màu gụ chít chữ “nhân”, quần áo chàm tay toang, giày Tàu vải, súng cối trệ sườn, lưng cài gươm Mèo tộc là người đứng giữa trạc 30 tuổi, mắt sáng như điện, tả hữu lù lù hai người ngoại tứ tuần, mặc y phục đen, cao lớn râu xồm, cằm bạnh, da ngăm, mắt vọ, sẹo hông, súng gươm tua tủa, nhác coi đã biết ngay hạng trượng phu uy tợn giang hồ. Đó là nhị vị tướng quân cùng Thập Vạn Đại Sơn đến vừa đúng lúc cứu nguy cho Thái Dũng. Đông Quân giật nảy người, biết không tiện đôi co nên cắp Thiên Kiều giông mất.

Ngay lúc đó, một con ngựa ô cao lớn đã vượt sông Bằng phi đến như giông, trên yên, mụ Ma Trảo mập cỡi trên cổ của lão Ma Hành, hét the thé:

– Tôn sư đâu rồi? Chao ôi, suýt chết! Lão quáng gà chạy đâu không chạy, chạy ngay vào chỗ nó đánh nhau!

Ngựa ô chưa kịp dừng vó, Ma Trảo đã phi vọt xuống, vừa nhác dạng Thái

Dũng, đã reo lên:

– Hay dữ à! Cụ trẻ đây rồi! Cười chết mất thôi! Tây Quỷ phát điên tru như chó đú, lính tráng hết hồn!

Thái Dũng vốn biết mụ Sam lỗ mãng, sợ có điều thất thố, vội chặn ngang:

– Song Ma! Có soái gia Thập Vạn Đại Sơn, nhị vị tướng quân, mau làm lễ ra mắt!

Sam Ma nghe nói đến thầy trò Thần Xạ, đều giật mình nhìn lại, lật đật cúi chào hết sức cung kính. Đoạn kể lại chuyện Cao Bằng. Mới hay, sau khi nhảy xe, người Sam xuyên rừng đi sông Bằng, nhưng lại gặp quân Cờ Đen đánh với quan binh, trận chuyển liên miên, đành kiếm đường tránh, xảy lại gặp lão phó soái Cờ Đen tràn binh đến đón bọn trong ra, nên phải lộn về khu cận trấn. Tình cờ thấy tướng Tây cùng đám Hàn, Bạch, Cung đang tiếp binh truy sát, thình lình quan binh tán loạn, nghe tiếng chó kêu rống lên hết sức ghê rợn, càng lúc càng rõ tiếng sài kíu tru. Lạ lùng, người Sam bèn leo lên một lùm cây rậm, thấy mấy viên tướng

Tây vừa phi vừa rống, đến bốn, năm người. Lính sợ chạy tứ tán. Có viên quan coi đạo Lê dương bộ binh, giữ ngựa bọn quan sáu lại, mấy tên bị vồ phát kích. Sau con trai tuần phủ họ Cung vội cùng Hàn, Bạch nữ tặc sấn tới, dùng võ điểm mới giữ yên được, cùng rút binh lập tức về trấn.

Nghe xong, ai nấy đều ngạc nhiên. Đại Sơn Vương gật gù bảo:

– Quả không sai. Họ đã bị đòn độc Đông Quân rồi!

Thái Dũng hỏi người Sam:

– Mấy kẻ bị? Có rõ ai không?

– Tây Quỷ, Tây Bàn, công sứ Cao Bằng. Cả bọn tru hộc giống nhau, coi hệt lũ chó dại!

Thái Dũng như sực tỉnh, nói luôn:

– Đúng là lên cơn dại! Ghê khiếp thực! Không biết lão Đông Quân thả nọc lúc nào! Đại Sơn Vương nghe Dũng nói, chợt bảo:

– À! Gớm thật! Ra lão đã thả độc ngay đêm trước, lúc bắn tên lửa gửi tướng

Tây! Lá thư tẩm nọc, bọn họ vô tình cầm đọc, chất độc truyền sang người! Hừ!

Không ngờ lão loại địch thủ khôn khéo đến thế! Ta có nghe Đông Quân chuyên luyện bá độc thần công! Kẻ bị không mong thoát chết, hiền đệ bị kiếm phong, phải coi chừng!

Thái Dũng lắc đầu:

– Tiểu đệ đã xem từ lúc bị thương! May chỉ là kiếm thường! Mà dầu có bị nọc dữ cũng không ngại. Đệ đã bị lão chém một nhát rồi và cũng đã biến thành chó dại cực kỳ ghê gớm. Không gặp kỳ duyên chắc chết còn đâu! Thương thay bọn

De Monstre, dầu Pasteur tái thế cũng không chữa nổi! Đó rồi kể qua nạn dữ trước, Đại Sơn Vương có dáng chăm chú nghe, bỗng sáng mắt hẳn, hỏi:

– À! Hiền đệ gặp Lãn Ông Thánh Y lại được truyền nghề thuốc liệu chữa nổi bệnh dữ kia?

Thái Dũng bâng khuâng:

– Thánh Y có dạy qua phép bí truyền, phòng tái đấu Đông Quân, từ đó mới thử một lần, chất độc còn nhẹ, chính vợ chồng người Sam đấy!

Tướng lạc thảo Vân Nam nhìn hai viên cận tướng, và vỗ luôn vai Thái Dũng:

– Hay lắm! Hiền đệ hãy vào Cao Bằng chạy chữa cho Tây Quỷ!

Ngạc nhiên, Dũng nhìn Đại Sơn Vương, nhớ lại điều cấm của Thần Quân, bèn nhăn nhó bảo:

– Ngu đệ chữa cho Song Ma đây, cũng đã mang tội nhiều! Thật chẳng dám phạm thêm lần nữa. Và, cướp tử tù ban nãy, nay ngu đệ cũng thành kẻ có án rồi, vào gặp chắc không tiện!

Tướng lạc thảo Thần Xạ đặt tay lên vai Thái Dũng, trầm lời:

– Nếu chẳng muốn độ thế, hãy vì ta, cứu người, và cũng vì hiền đệ nữa. Bọn

De Monstre sống, sẽ ngăn chận lực lượng Đông Quân, kẻ thù của hiền đệ.

Thái Dũng vốn kính nể Bắc Thần, nghe nói chợt giải được hết lo ngại bèn vâng lệnh ngay, vội vào trong hang, sửa soạn mọi thứ.

Dân phố cùng khách bộ hành Kinh, Thổ túa ra coi thấy bọn Voòng dữ tợn, ai cũng lấy làm lạ, bàn tán không thôi.

Bọn Voòng cùng đám kỵ binh vào trung tâm thị trấn, thấy lính tráng phu phen đang trám các lỗ đạn, dấu máu còn dính trên mặt đường, bỗng nghe có tiếng hô lớn, trông vào, đã thấy một viên quan Năm chờ cùng một cơ Lê dương kỵ mã tiến ra, kẹp dọc hai bên. Viên sĩ quan hất hàm hỏi:

– Bọn các người đâu tới? Muốn chi?

Voòng Lầu dõng dạc:

– Thập Vạn Đại Sơn Vương Vân Nam sai ta vào chữa bệnh cho quan Sáu!

Phải quan Sáu giờ đang tru như chó dại?

Viên quan năm hỏi:

– Tướng giặc Vân Nam? Nhưng sao biết?

Voòng cười ha hả:

– Quan ngốc! Thầy các ông bị nọc Đông Quân có trời chữa? Chủ soái ta ghét Đông Quân, muốn giúp, các ông muốn quan Sáu chết thể chức sao? Còn hỏi dài dòng….

Viên quan coi Lê dương, nghe nói bọn ghét Cờ Đen, có dáng yên lòng, nói luôn:

– Được! Nếu có ý tốt, cứ theo bản quan! Nhưng súng ống nên để ngoài!

Voòng Lầu không đáp, cứ cùng đồng bọn giục ngựa đi, viên quan Năm chờ đành nhún vai đi bên. Lê dương rầm rập phò cả bọn đến thẳng doanh trại đạo quan binh Cao Bằng. Trại bố phòng cẩn mật, binh lính như rươi. Vừa tới cổng trại, đã nghe tiếng tru hết sức ghê rợn. Thái Dũng bảo Voòng, Thoòng:

– Quả không sai! Quan Tây bị nọc chó hành, đang bạo phát!

Viên quan Năm chờ đưa sáu người vào sân, vừa đến thềm khách sảnh đã thấy viên tư lệnh phó De la Tour băng tay cụt, được hai người lực lưỡng dìu ra, cạnh có cha con Cung Đình Quyền. Vừa nhác bóng, Giáo đã cau mày nói lớn:

– À! Bọn Sam thối! Lại có cả thổ phỉ vua pạc-hoọc Quảng Tây! Cả gan dẫn xác đến rừng gươm!

Mụ Sam mập cười thé, Voòng Lầu vuốt râu mắng:

– Nhà nước cho thằng nhỏ mặt trắng tiếp khách hỗn thế ư? Ta tới đây có hảo ý chữa bịnh chó dại, trị nọc Cờ Đen. Bọn ngươi muốn quan Sáu rống suốt đêm này rồi xuống âm phủ ư?

De la Tour nhìn bọn Voòng khách râu xồm, mệt giọng:

– Quả quý khách là người của Đại Sơn Vương sai đến, nhà nước rất mừng được gặp. Xin quá bộ vào trong.

Voòng cùng Thoòng, Lê, Lực xuống ngựa tiến lên thềm, để người Sam lại.

De la Tour cùng đám quan Tây, Ta đưa thẳng vào phòng khách, truyền đem rượu trà mời. Không thấy bóng Hàn Tố Liễu, Bạch Ma Nữ, Thái Dũng còn đang lấy làm lạ, bỗng nghe tiếng tru rống nổi lên, phía trong rầm rầm nhốn nháo:

Voòng Lầu buông chén rượu:

– Cứu bệnh như cứu hỏa! Mau đưa vào phòng quan sát!

Bọn De la Tour chép miệng:

– Bác sĩ đều bó tay! Định đưa về Hà Nội giờ…. bắt buộc bản quan phải tin các ông! Đoạn truyền người dìu, cùng đám quan võ Tây Ta, dẫn bọn Voòng vào trong, dọc theo một dãy hành lang đầy vệ binh, đến một căn phòng khuất. Đẩy cửa vào, thấy lố nhố đầy lính hầy, thầy thuốc áo trắng. Lão tướng De Monstre đang tru hộc, mắt đỏ ngầu, nhe răng như con thú, định vồ cắn người, bị lính dõng trói riết vào thành giường. Một viên bác sĩ già quay ra lắc đầu thất vọng:

– Đúng triệu chứng bệnh chó điên phát! Hệt kẻ bị chó cắn sau 100 ngày.

Giờ đưa về Hà Nội cũng vô ích! Chỉ còn sửa soạn đám tang cho đỡ tủi linh hồn quan Sáu!

Ai nấy đều kinh. Sang bên cũng vậy, một dãy liền bốn phòng, De la Table, giám binh, công sứ Cao Bằng, cùng viên quan Ba tùy cận De Monstre cũng tung tung hô chồm vồ, xem nhẹ hơn De Monstre chút ít. Lộn lại phòng De Monstre,

Voòng lắc đầu e ngại:

– Mau đem thiêu hủy bức thư của lão tặc Cờ Đen. Nọc độc tẩm thư, cầm vào là mang họa!

Hai cha con họ Cung nhìn nhau. Nhờ phong vận ngầm bí huyệt, viên tuần phủ đã thoát nọc truyền.

Thái Dũng vén tay áo, quay bảo Năm Lực:

– Sửa soạn dược liệu, dụng cụ! Phải chữa gấp mới được!

De la Tour truyền mọi người dạt ra xa. Cha con họ Cung khoanh tay nhìn, dáng hoài nghi. Mấy phía súng ống tua tủa. Đeo mặt nạ “cô hồn”, Thái Dũng tiến lại gần lão tướng Tây. Lão nhe răng trắng nhỡn, tru rống, gầm gừ coi cực dữ tợn, thấy người chỉ chực vồ cắn nhưng chân tay đã bị cột chặt.

Từng bước, Dũng đi tới, mắt nhìn lão phát giọng trầm âm:

– Quan Sáu De Monstre!

Lão tướng rú lên vùng vẫy, mọi người nín thở, bất thần, Dũng múa tay búng “véo véo” liền mấy đường chỉ phong. Phựt phựt! Giây trói tháo tung, lão tướng Tây như con cọp xổng chuồng, lập tức chồm lên, nhe nanh, giơ vuốt vồ Thái Dũng.

Ai nấy giật nảy mình, nhưng hai tay De Monstre vừa chụp gần vai Dũng, chàng trai đã chuyển nhẹ một cái, thọc luôn một ngón vào tim lão.

Rầm một tiếng, cả thân xác cao lớn ngã vật xuống giường bất động. Nhanh như cắt, Cung Đình Quyền đã vọt lại, nhưng Voòng, Thoòng đã níu vai lại, “suỵt” khẽ. Cung Đình Giáo sấn luôn đến bên giường đưa tay qua mũi De Monstre, vùng kêu:

– Tắt thở! Quan Sáu chết rồi!

Bọn De la Tour nhao nhao. Giáo thuận tay móc luôn vào mắt Thái Dũng.

Nhưng Dũng đã đảo tay nắm vụt lấy cổ tay Giáo, điềm nhiên:

– Quan Sáu đã chết! Nhưng hãy đứng yên để mỗ làm việc!

Vừa nói vừa đẩy bắn Giáo vào một góc, quay bảo mọi người:

– Quan Sáu chỉ chết giấc thôi! Tạm dứt kinh mạch cho nọc ngừng phát tác!

Từ giờ đến sáng mai, các ông phải tin thầy thuốc, quan Năm khá thay quyền quan

Sáu, ban lệnh cho nghiêm!

De la Tour gật đầu. Cả trại đều yên. Thái Dũng bắt tay vào việc trị bệnh, làm đúng bí pháp do Thánh Y Lãn Ông Mai Hoa Thung đã truyền dạy. Cho uống linh đơn, thuốc nước, dùng công lực châm cứu. Lát sau cả mười ngón tay De

Monstre đã tím bầm, chàng trai dùng kim nhọn chích nặn đến khi máu ra đỏ mới thôi. Nhưng… lại còn một ngón út tím. Chàng xoa tay, bảo mọi người:

– Tử thần đã đẩy lùi! Giờ để quan Sáu nằm tới gần sáng là xong!

Mọi người nhìn, quả nhiên thấy mặt De Monstre đã hồng trở lại, ngực thở đều.

De la Tour cả mừng, lại dẫn Dũng sang phòng khác. Cứ thế, chàng trai dùng bí pháp Lãn Ông như trước, chữa cho bọn De la Table, công sứ Cao Bằng…

Chừng xế trưa, mọi việc đã xong. Lại đắp luôn thuốc vào tay cụt De la Tour, cho uống một viên linh đơn, từ tốn bảo khẽ:

– Tay cụt này chính bởi kiếm Đông Quân may lại kiếm thường. Thuốc tốt, chỉ vài bữa sẽ lành. Quan Năm có thể làm một bàn tay nhọn thay vào, đánh giáp lá cà càng hay. Từ giờ đến mai, phải cho toàn lính thủ túc canh phòng bệnh. Xin coi chừng cha con quan tuần phủ Cung và thủ hạ! Biết đâu ông ta không muốn được phủ toàn quyền cho tướng dốt về thay, để tự do thao túng!

Viên quan Năm tư lệnh phó vùng trợn tròn mắt nhìn về phía Cung và sực nhớ viên tuần phủ đã cầm thơ Đông Quân đọc mà không bị nọc truyền. Lập tức,

De la Tour mật sai người canh phòng kỹ lưỡng, cấm vào thăm nếu không có lệnh của “bạn thầy thuốc Vân Nam lạc thảo”. Đó rồi, viên quan Năm truyền mở tiệc khoản đãi bọn Thái Dũng, dọn buồng riêng lưu khách lại, chờ kết quả cuộc trị bệnh lạ đời, cứ điềm nhiên thay phiên nhau nghỉ, đợi ung dung.

Rồi bóng tối đổ xuống doanh trại, giữa sự khắc khoải của đám võ quan biên trấn. Vào khoảng đầu canh năm, lúc trăng mười sáu đã xế mái Tây, thì viên đại tá giám binh Cao Bằng vùng tỉnh dậy, bàng hoàng ngơ ngác như vừa qua cơn ác mộng lạ lùng:

– Đây là đâu? Đám thuộc hạ reo lên hớn hở:

– Quan giám binh khỏi rồi! Bẩm! Đây là phòng riêng trong trại quan binh!

Tây Bàn dụi mắt vươn vai, vừa bước xuống giường thì phòng bên, bọn công sứ Cao Bằng cũng vừa tỉnh, bước sang.

De la Tour được cấp báo vội chạy tới, thấy nhau mừng rỡ khôn cùng.

Cả mấy viên võ quan kéo nhau sang phòng De Monster. Viên tướng già đang nằm yên, bỗng thở một hơi dài, mở choàng mắt ra.

– Đây là đâu? Ta đang đuổi bọn Cờ Đen rõ ràng thấy đứng giữa một bầy chó sói.

Lão chợt thấy Tây Bàn, vùng chống tay nhỏm dậy, bàng hoàng. Phảng phất trong tiềm thức như còn đầy hình ảnh ghê gớm, quái gở, như kẻ bắt nguồn được tiền thân chó sói mơ hồ. Cả bọn nhớ lại lúc hành hình, bỗng phát bệnh kỳ dị rồi chập chờn như tỉnh như mê trong mộng ác. De la Tour vội kể qua chuyện đáng sợ, đoạn hỏi:

– Quan Sáu, quan Năm, quan sứ sờ thư Phi Mã Ác, phải nọc Đông Quân, thành chó dại. Bác sĩ bó tay. Nếu không được người của Đại Sơn Vương đến cứu!

Bọn tướng Tây đều chưa hết ghê thay bệnh quỷ, ngó nhau còn thấy bóng tử thần. Nghe De la Tour nói đến Đại Sơn Vương, vùng sửng sốt, lão tướng Tây vùng hỏi:

– Hiện bọn ấy đâu? Lạ thật! Tướng lạc thảo Vân Nam sao lại cứu chữa chúng ta, kẻ thù của giặc cướp? Phải đến gặp ngay mới được!

Dứt lời, lão tướng cùng mọi người theo De la Tour tiến sang khu nhà khách cuối dãy.

Bọn Voòng Lầu y phục chỉnh tề đang ngồi pha trà uống rất ung dung. Năm

Lực gác ngoài, vội đưa bọn De Monstre vào.

Vừa thấy mặt, viên tướng già đã đứng sững, ngạc nhiên:

– À… Thoòng, vua pạc-hoọc Mã Đầu Sơn. Voòng trùm hải tặc, lại cả Người

Sam!

Voòng Lầu cười lớn:

– Chào quan Sáu, quan Năm!… Các ngài lạ lắm sao? Xin mừng chén trà… dứt bệnh quỷ, còn sống để báo thù Đông Quân!

Tướng Tây cùng mọi người chào nhau từ tốn, nói luôn:

– Bản chức xin có lời thành thực cám ơn đã chữa bệnh dữ! Ân này chưa biết lấy chi trả được, nhưng bản chức thật lấy làm lạ sao “tướng lạc thảo cứu người nhà nước”?

Voòng Lầu cười ngất:

– Chúa soái ngộ thích cứu người hoạn nạn! Thế thôi! Nay các ngài đã thoát tay tử thần, bọn ngộ xin cáo biệt!

Vừa nói vừa đưa chén trà nóng cho tướng Tây, định đứng lên, De Monstre đã ngăn lại:

– Chẳng hay vị nào đã ra tay Thần y?

Voòng trỏ Thái Dũng. Bọn De Monstre ngỏ lời cảm tạ. Chưa dứt tuần trà, bọn Voòng đã đứng lên, định đi, nhưng viên tướng Tây đã vuốt râu bảo:

– Nợ này lớn quá, bản chức mang lâu sao nổi? Xin cho đáp lại ân sâu!

Voòng cũng vuốt râu cười ngất:

– À! Quan Sáu nổi danh sòng phẳng không sai. Tướng nhà nước sợ mắc ơn tướng giặc, sẽ phiền cho công việc trị an. Nhưng tiếc thay, thầy ngộ lại ghét chức tước, cũng chẳng thích tiền.

Nói đoạn, ra hiệu cả bọn cùng chào, ra hiên nhảy luôn lên ngựa, đi liền.

Bọn De Monstre ngó theo, bỗng gọi giật giọng:

– Khoan! Cho bản chức hỏi đã!

Cả bọn dừng ngựa, vẫn không quay mặt lại, tuy thừa biết súng ống tua tủa sau lưng:

– Sao? Quan Sáu muốn lưu khách bằng binh lực?

– Không! Bản chức mấy đời làm tướng chưa chịu nợ ai, khi nào xử như phường tiểu lại! Chẳng lẽ Đại Sơn Vương không thích gì chăng?

Vừa nghe đến đó, Voòng Lầu ra hiệu dừng, và lộn phắt ngựa lại bảo tướng

Tây:

– Thầy ngộ có thích một thứ thôi! Nhưng chỉ nói riêng với quan Sáu!

De Monstre nhìn bọn De la Table, đoạn ngoắt tay vọi Voòng lại đầu phòng.

Voòng xuống ngựa, tiến đến, ghé sát tai De Monstre nói một tràng Quảng Đông. Bọn võ quan chỉ thấy viên tướng già thoáng giật mình biến sắc, có vẻ xúc động lạ thường. Đoạn nhíu mày buột miệng:

– Lầm rồi! Bản chức đang điên đầu đây! Tướng núi lầm to!

Voòng Lầu lạnh lùng:

– Thầy ngộ không lầm! Ngộ chỉ muốn mượn quan Sáu ít ngày thôi! Và chắc quan Sáu không từ chối!

Giọng De Monstre bỗng trở nên gay gắt:

– “Chó biển” tham lam đòi quá cái ơn! Bao nhiêu tâm cơ huyết hãn tiền của nhà nước! Đâu thể được!

– À! Nếu không được thì… Voòng xin chào quan Sáu! Voòng về núi, cười vỡ bụng vì lần đầu mới thấy một ông tướng khôn coi ơn như rác và coi mạng mình như ngóe… vậy thôi!

Miệng nói, tay trỏ xuống tay lão tướng Tây, cười ngất, quay đi. Lão tướng

Tây ngạc nhiên nhìn theo hiệu Voòng mới rõ đầu ngón tay út mình cả hai bên đều tím như quả “phù quân”. Chột dạ, vùng gọi:

– “Chó biển”! Khoan!

Voòng Lầu quay lại, giọng trầm trầm:

– Mạch ngón út dẫn chất độc lên tim lát nữa, nếu không trị ngay. Môn “nọc gửi tạm” đó!

Tướng Tây chợt hiểu, giận muốn trào máu họng, cố làm mặt điềm nhiên, cười bảo:

– Giặc xồm! Thôi! Bản chức đền ơn cho xong nợ! Vào đây! Đoạn ra hiệu cho mọi người đứng lại, dẫn Voòng Lầu vào phòng trong. Đó là căn phòng mật của lão tướng, gần phòng ngủ, treo đầy địa đồ. Bảo Voòng đứng ngoài, lão tướng thận trọng từng bước, đến bên bàn, ngồi vào ghế, dùng thước đo tọa độ, đoạn bước đến trước một pho tượng đồng đen, gõ liền mười cái vào đỉnh đầu tượng. Lập tức pho tượng phát ra những tiếng xè xè, và quay tít như chong chóng, phát ra hàng loạt độc trâm lách tách. Lão tướng đã ngồi thụp xuống, trâm bắn vãi ra cả chỗ Voòng đứng. Voòng cũng đã phòng bị, dạt sang bên, thấy pho tượng dừng lại như cũ, hé miệng ra một cái lưỡi to bằng thật. De Monstre tháo lưỡi, tiến ra, trao cho Voòng Lầu:

– Tâm lực mấy năm ròng mới thu về cho nhà nước! Cầm lấy! Và… hết nợ!

Voòng Lầu tách lưỡi thép ra, thấy một mảnh giấy mỏng hình dải quạt, chi chít đầy nét vẽ đen, đỏ bằng mực Tàu son ta, loằng ngoằng như hình thể núi sông, chứa vào chữa Hán thảo cách quãng khó hiểu. Voòng lấy trong túi ra một tấm kính hiển vi, soi qua, đoạn bỏ vào túi, gật đầu hài lòng:

– Cám ơn quan Sáu cho mượn bảo vật! Giờ đến lượt bọn ngộ trả nốt món nợ lang y!

Dứt lời, rúc ba tiếng cú mèo. Thái Dũng đang đứng ngoài sân, lập tức lên ngựa vào thềm, nhảy xuống, tiến vào phòng tướng Tây.

Voòng Lầu trỏ bảo:

– Giờ Hoa Đà có thể hốt bóng Tử Thần chó dại được rồi!

Thái Dũng mời De Monstre đến giường, điểm cứng đờ, dùng kim chích nặn hết nọc tụ đầu ngón út, đoạn lại cho uống thêm một viên thuốc đỏ dùng điện công vuốt mấy kinh mạch, và phẩy nhẹ một cái. Tướng Tây nhỏm ngay dậy, huyết khí chu lưu, khỏe hẳn. Nhưng vừa dứt bệnh quỷ, lại tiếc báu vật, lão tướng Tây lừ lừ nhìn hai người, thở phào như muốn trút cả sự cay uất ngàn cân:

– Hết nợ! Thôi! Khá rời doanh trại không bản chức đổi ý!

Thái Dũng không hiểu nhìn Voòng. Trùm hải tặc biển Bắc biết đã đến giây phút hiểm nghèo, vùng bảo tướng Tây:

– Phiền quan Sáu tiễn thêm một cung đường ngắn!

Lão tướng De Monstre trợn mắt mắng:

– Bản chức đường đường võ tướng thay mặt nhà nước Đông Dương, thất tín với bọn giặc cỏ sao? Đi thôi! Và đừng chọc giận bản chức thêm nữa!

Voòng Lầu nhún vai cùng Thái Dũng, bỏ ra luôn. Tới sân, đã gặp bọn De la

Tour, Cung Đình Quyền đứng đó bàn tán, thấy hai người ra, Cung hỏi liền:

– Quan Sáu đâu?

Voòng trỏ lại sau, lẳng lặng chào, cùng Dũng tiến ra chỗ ngựa đứng.

Bọn quan văn võ nhìn nhau, chưa hiểu đầu đuôi, cha con Cung Đình Quyền vọt luôn vào trong phòng De Monstre.

Vừa kịp thấy tướng Tây gieo mình xuống ghế, đấm rầm xuống mặt bàn nảy tung cả bút mực:

– Tức chết mất thôi!

Viền tuần phủ thấy lão tướng Tây như thường, đoán có chuyện kín chỉ bắt bọn Voòng mới biết được, bèn kín đáo búng luôn vào vai De Monstre một nhát chỉ phong, miệng hô lớn:

– Quan Sáu bị hại! Chớ để chúng chạy thoát!

Nào ngờ đúng lúc lão tướng ngã người sang một bên, “véo” gió điểm vút quan, xiên rách tấm bản đồ sau lưng một lỗ nhỏ. Tướng Tây nghe quát, đứng phắt lên, ngơ ngác:

– Gì đó quan tuần?

Quyền thất trượt, định thả đòn nữa, nhưng Giáo đã đưa tay gạt ngang, vừa lúc đó bọn giám binh túa vào. Bên ngoài, viên quan coi cơ Lê dương đã rúc một hồi còi, mấy phía lính tráng nhốn nháo, rầm rập lên “quy lát” lách cách. Lão tướng

De Monstre cau mày nhìn họ Cung, giọng mệt:

– Có chuyện chi đâu! Sao không để họ đi cho xong!

– Hạ quan tưởng nó ám hại quan Sáu.

Tướng Tây nhún vài cùng thuộc hạ đi ra.

Lúc đó, bọn Voòng Lầu vừa giục ngựa vọt đón giữa sân, bỗng nghe còi thổi, súng lên đạn, cả sáu người cùng gò cương, nhìn quanh đã thấy từng loạt họng súng chĩa vào. Voòng quan sát địa hình vùng cười nhạt mắng như sấm:

– À! Bọn quan chức vô ơn tiễn khách quý bằng súng ống! Tây Quỷ, Tây

Bàn vừa thoát cơn chó dại đã trở mặt vong ân!

Lão tướng Tây vừa ra đến thềm nghe Voòng mắng, vội xua tay làm hiệu nói lớn:

– Lầm lẫn đó thôi. “Chó biển” cứ đi! Các cơ binh không được cản!

Rập! Lính dạt ra, hạ mũi súng. Viên quan võ vừa rúc một hồi còi, cánh cổng tiền đã mở rộng.

Voòng Lầu vẫn đề phòng, giục ngựa lên, tay rờ báng súng, bọn Dũng tiến theo. Vó câu bước một lóc cóc, mỗi bước đi, một bước vần sát khí. Qua sân rộng đến cổng, Voòng mới thở phào, vừa toan vọt đi thình lình nghe vó ngựa rầm rập rồi đội quân kỵ nữ áo “voan” từ ngoài phi đại vào, dẫn đầu là Bạch Ma Nữ động chủ

Phi Mã Biệt Sơn, trên ngựa có đèo thêm một mụ già Mán quần áo sặc sỡ, mặt nhăn nheo dữ tợn. Bọn ma nữ đến hai mươi sáu ả, vừa đến cổng thì bọn Voòng tiến ra, gặp nhau giữa cổng.

Bạch có dáng vội vàng, bị chắn lối nổi giận vừa định mắng, chợt nhận ra mặt bọn Voòng, vùng kêu sửng sốt.

– Kìa! Tưởng ai, hóa “chó biển”! Lại cả vợ chồng Sam thối nữa! Dẫn xác vào đây làm gì?

Voòng Lầu cười lớn:

– À, lão nương! Lâu nay âm công luyện tới đâu rồi? Sao lại có cả mụ Kê Độc tràng bà nữa!
Vừa dứt lời, mụ Sam Ma Trảo đã cười the thé:

– À! Chào hai mụ già ế chồng! Đến chữa bệnh quan Tây, phải không? Hé hé! Vào mau! Vào chữa cho quan Sáu tắm!

Thái Dũng vội lừ mắt, Ma Trảo nín khe, cả bọn vừa lách ngựa ra, Ma Nữ đã truyền thủ hạ chặn đường, chòng chọc nhìn Thái Dũng, hỏi một viên đội đứng gần đấy:

– Sao quan Sáu lại cho đi?

– À! Quý khách tới trị bệnh cho các quan từ sáng qua!

Bạch Ma Nữ cầm roi ngựa quất véo một cái về phía Dũng. Thoòng Mềnh đi bên, vung luôn roi quất lại, cả giận mắng lớn:

– Quỷ cái! Sao dám hỗn?

Dứt lời, toan giục ngựa lên dẹp lối, bỗng lại nghe tiếng vó câu khua rập, trông ra đã thấy nàng nữ tặc Phi Mã Yên Sơn dẫn một toán nữ quân phóng tới như giông. Bị cản, Hàn nương vung roi quất ngựa bọn thủ hạ Bạch đen đét:

– Lũ chó này sao không vào, còn đứng cản cả lối đi!

Thế là hai bên mở luôn trận đánh nhau bằng roi ngựa, loạn xạ, ngựa lồng hý vang. Bọn Voòng Lầu thấy thế lập tức giục ngựa vượt khỏi cổng, vừa nổi gió quét đường, đám giặc cái hai núi ngã lỏng chỏng.

Lão tướng De Monstre đứng trong nhìn ra, chợt thấy nhốn nháo ngoài cổng, vội sai người ra coi.

Hàn Tố Liễu, Bạch Ma Nữ đang loạn đả, bỗng Hàn thấy bọn Voòng đi qua, giật mình, vội truyền chúng ngưng tay, giục ngựa lại gần. Lúc đó, bọn Voòng đã đi qua cổng, nhưng còn vướng đám quân nữ, Bạch vọt ngay tới, quát:

– Khoan! Người cỡi ngựa hồng đứng lại! Mặt cô hồn phải họ Lê? Đúng lúc Hàn nương cũng sấn lại. Thái Dũng liếc trông lại, mới hay đường roi Ma nữ đã để lại một vệt dài trên lưng ngựa hóa trang, hằn rõ một đường đỏ tươi màu huyết!

Soạt! Thoòng, Voòng đã giật phắt tay mép yên, rút phắt ra một cặp trung liên gài dưới vải phủ, chĩa thốc vào quân nữ.

Thái Dũng đưa tay lột mặt cô hồn, từ tốn:

– Phải! Chính Lê mỗ đây! Chào hai nàng mạnh giỏi!

Hàn Tố Liễu vừa nhác mặt Trại Phan An, đã giật mình kêu sững được tiếng “phu quân”, trong lúc Ma nữ hét “bay đâu”, nhưng Voòng, Thoòng đã vỗ chát lên báng súng. Phập! Cả sáu người đã vụt lia chân, đảo phắt thế ngồi quay mặt về đuôi ngựa.

– Các ả ở lại chơi với quan Tây! Bọn ngộ có lời từ biệt! Ả nào nhúc nhích, cho ngậm kẹo đồng liền!

Lóc cóc, lóc cóc, từng bước, từng bước ngựa khua móng mặt đường, xa dần doanh trại, họng súng đen ngòm sẵn sàng nhả đạn. Mau dần, tới ngã tư đầy cây cối, cả mấy con ngựa vụt sang kiệu đại, ngoắt đi như cơn lốc.

Voòng, Thoòng cùng phá lên cười. Mặc phía sau bọn Hàn, Bạch, tướng Tây, quan Ta mỗi kẻ một tâm sự ức trào màu họng. Vừa lúc trống tàn canh, đổ xuống biên thành. Bọn Voòng vọt ra ngoại ô, bỏ lại vùng trấn vừa thức giấc, kiếm lối mòn xuyên sơn, chạy về nẻo sông Gầm. Bình minh ló dạng. Đồi núi hiện dần trùng điệp giữa tiếng chim kêu vượn hú như lời ca chào mã đáo thành công. o O o

– Khai huyệt! Di chuyển đi chỗ khác. Về tỉnh trấn nào cũng được! Không thể ở xó núi hoang lạnh này mãi!

Tần ngần, người quản gia nhăn nhó:

– Nhưng… Các cụ và cô, cậu đang yên nghỉ… chưa được ba năm, cải táng…

Không nên!

Thái Dũng đặt tay lên vai Lực:

– Không hẳn là cải táng. Chỉ đem đi nơi khác thôi! Ý tôi không muốn các cụ nằm lạnh chốn hoang sơn cho người lạ nhang đèn cúng cô hồn như thừa nhận! Về nơi khác tiện viếng thăm!

Năm Lực đành theo lệnh tiểu chủ. Lát sau, đã chế tạm được hai cái móng bằng gỗ cứng, hai người hạ móng xuống, bắt đầu đào xới. Móng gỗ, nhưng sức vận công mạnh, xúc đất băng băng từng tảng lớn. Dũng đào mộ ông Tuần. Mộ chôn vội chỉ độ ba, bốn xếp mỏng, chỉ mười lăm phút sau, móng đã chạm áo quan.

Năm Lực chợt kêu khẽ:

– Lạ quá! Cậu Ba! Không có hơi! Mà… này! Dưới huyệt lại có cỏ! Cỏ mọc dưới mấy xếp móng.

Thái Dũng cũng vừa thấy cỏ từng mớ ngay trên quan tài. Miệng cắn đèn bấm, tay gạt nốt đất dính. Cạch! Cả chiếc áo đã lộ ra.

Bỗng chàng nhận rõ giây lạt đánh đai như tuột từ lúc nào. Còn đang ngạc nhiên, đã nghe Năm Lực thò đầu sang, thì thào:

– Cậu Ba! Sao “áo” cụ lớn bà lại không đánh đai? Lạ thật! Còn nhớ rõ tôi và

Phàn giáo đầu đánh “đai” lạt mấy vòng mà!

Dũng chiếu đèn, cúi sát xuống, tần ngần cầm lạt buộc chặt lại. Nhưng vừa giật khẽ, cả khúc lạt đã lột đứt. Cạch! Nắp ván thiên hơi nhích sang bên.

– Quái! Sao như gẫy móng?

Chàng vừa lẩm bẩm vừa cầm mép ván đậy che kín, nhưng không hiểu sao lại kéo vụt sang một bên. Hình như chàng muốn thấy lại thân xác người cha, dầu chỉ là xác rữa.

Nhưng… ván thiên vừa lật, ánh đèn bấm xanh lè chiếu thốc vào lòng quan tài đen ngòm… Và chỉ suýt nữa, chàng trai đã giật bắn người kêu kinh dị. Vì… quan tài rỗng không! Xác viên quan triều họ Lê như đã tan biến vào không khí!

Lạ nữa là quan tài cũng chẳng có nước.

– Trời! Cậu Ba! Đúng lúc Năm Lực cũng vừa kêu giật giọng. Bên quan tài bà tuần cũng trống trơn, giữa mấy vách gỗ, chỉ còn không khí và bóng tối!

– Thế là thế nào? Lạ thật! Chẳng lẽ xác tiêu? Tiêu luôn xương cốt?

Hai người ngó sững nhau, hoang mang, nát óc và cũng vọt sang mộ Thái

Hùng, Trâm Anh đào.

Nhưng cũng như hai mộ kia dưới lòng đất, chỉ còn hai cái quan tài rỗng!

Kinh ngạc đến cùng. Cả hai cùng vọt lên đứng lặng dưới đêm mờ, nhìn suốt dẫy huyệt mồ sâu thẳm bốn cái quan tài rỗng, như chứa đựng cả cái bí mật của một gia tộc thác oan. Rất lâu, Năm Lực mới lắp bắp:

– Sao lạ thế này? Rõ ràng hai cụ lớn nhà và cậu Hùng, cô Anh an táng dưới này, chính tay tôi đào huyệt…?

Thái Dũng thở dài rung giọng như nói để mình nghe:

– Một nhà đoàn tụ, bỗng nhiên thảm họa đổ đầu, bốn mạng chết oan, nằm dưới mồ không yên, mấy kẻ sống sót gặp nhau không nhận? Điên đầu mất thôi!

Xác chết đi đâu? Có kẻ đào xác đem đi? Không lẽ là nữ tặc Hàn Tố Liễu? Vì nàng thường xuống lễ mộ? Hay lão thù Đông Quân? Lại còn Thái Kiệt, Nhụy Kiều?

Còn…?

Càng nghĩ, càng thấy bí mật trùng trùng. Gió rừng đêm lùa huyệt trống, mang lên mùi đất ngai ngái hơi cỏ nát. Mái tóc chàng trai họ Lê lồng bồng, từ cửa rừng xa vọng về vài tiếng hoẵng ngân dài, cô đơn, ngơ ngác… Bỗng tít trên ngọn

Phi Mã Yên Sơn, đổ xuống vài tiếng kiểng cầm canh mang như từ cõi xa xăm “âm” về….

Thái Dũng vụt buông gọi:

– Chú Lực! Đi thôi!

Người quản gia ngẩng giọng:

– Mà… đi đâu? Thế còn dãy huyệt không này?

– Xác mất tôi sẽ đi tìm ra. Nán lại làm gì?

Dứt lời, chàng trai kéo người quản gia vụt đi, bỏ lại sau lưng dãy huyệt sâu ngổn ngang bốn cỗ quan tài rỗng. Lát sau, hai người đã rời khỏi vùng cấm địa Pi A

Ya, mải miết xuyên sơn, nhắm hướng Tây Bắc bôn ba. Thấy tiểu chủ ngồi im lìm trên lưng ngựa, Năm Lực cũng ngậm miệng theo, mải tới lúc rạng đông, hạ nước phong, Lực mới hỏi:

– Giờ cậu đi đâu?

– Nhiều nơi lắm! Nhưng cần tìm cho được lão “quỷ phương Tây”! Tôi muốn lấy lại mảnh họa đồ, giúp ân huynh Thần Xạ! Biết đâu “Đệ Bát Kỳ Quan” chẳng gặp ta vén bức màn bí ẩn? Giờ có lẽ nên nghỉ chân chốc lát, kiếm thức chi ăn, còn tiếp tục lên đường!

Cả hai dừng ngựa bên một con suối trong, và ngay tối hôm đó, vó câu bốn bánh đã tới bên thành Lào Kay. Hai thầy trò gò cương, nhìn ánh điện vàng hoe trong đêm sương.

Năm Lực bảo Thái Dũng:

– Trấn này là cửa ngỏ biên giới Việt – Hoa, vốn nổi tiếng đất nghịch, quan binh, lục lâm đạo tặc như rươi. Ta nên dấu hành tích!

Chàng trai lắc đầu:

– Bốn phương mù mịt, mọi việc như mớ bòng bong, bạn thù ẩn khuất, ta không ra mặt làm miếng mồi ngon, như sao được loài cọp đói.

Hai người nhập trấn. Tình cờ lại vào dịp cuối tháng. Lào Kay đổi hẳn bộ mặt buồn tẻ, người ngựa xe cộ qua lại rầm rập. Lính biên phòng khách trú, thổ dân các sắc ngược xuôi cười nói ồn ào, nhất khu phố lèo, vùng cầu Trấn Phong, khách đỏ đen qua lại tấp nập, sòng bạc chật người. Hai thầy trò đảo một vòng, đoạn kiếm một tửu quán gần khu sòng bạc, vào ăn.

Quán đông, thực khách ngồi đầy, phần nhiều thuộc loại khá giả. Thái Dũng kiếm được chỗ sát cửa sổ lầu, gọi rượu cho Năm Lực uống. Lâu ngày phong trần khắc khổ, chàng cũng làm mấy ly Mai quế lộ. Đang nghĩ miên man, chợt nghe

Năm Lực khẽ bảo:

– Công tử! Tụi kia nhìn mình dữ quá! Chắc có gian ý!

Dũng trông ra, thấy quán lúc đó chật ních khách ăn, có một bọn bốn, năm tên mặc quần áo chàm đang liếc về phía chàng, bàn tán thì thầm. Xế góc đàng kia, lại hai gã khác, y phục xạ phang, cũng đang ngó trộm hai phía. Toàn mặt lạ, dữ, tên nào cũng gân guốc, mặt cô hồn. Nhưng Dũng ngờ ngợ trong bọn bốn, năm tên áo chàm, có một tên hình như tên gia tướng của cha con viên tuần phủ Cung Đình

Quyền.

Thái Dũng lại điềm nhiên ngồi xuống. Xong lần túi lấy “bạc xòe” trả, vô tình lôi cả tấm lắc đồng ra. Bỗng nghe cả lầu huyên náo, tiếp theo tiếng quát ồm ồm, liền mấy phát súng nổ chát chút, thực khách nhốn nháo xô ghế định chạy.

Thái Dũng, Năm Lực trông ra, thấy hai gã áo xạ phang đang quay tít súng cối trên ngón trỏ, mắt lừ đừ như say rượu. Góc đàng kia, một tên vừa đổ xuống nằm dụi trên ba, bốn tên đồng bọn quằn quại, cây súng vừa sút tuột khỏi tay, còn quay véo véo trên không.

Cả lầu sợ hết vía ngó đống xác chết trong nháy mắt, gã áo đen cao rỏng vẫy vẫy mũi súng khàn giọng:

– Ngồi xuống ăn như thường! Không sao mà! Bọn chó định bắn trộm chủ ngộ à?

Khách ăn riu ríu ngồi xuống, cầm đũa còn run bắn. Ngay lúc đó, tên áo xạ phang đã cầm súng tiến lại trước mặt Thái Dũng, cúi đầu kính cẩn nói một tràng tiếng Quan Hỏa:

– Công tử đã về! Điện chủ đang chờ công tử trên Thiên La! “Người” nóng lòng sai bọn tôi sang đón đợi! Thỉnh công tử về ngay!

Nghe tên lạ mặt nói, Thái Dũng không khỏi kinh ngạc, vôi đưa mắt nhìn kỹ.

Hắn rỏng cao, rõ tay có bản lĩnh, cặp mắt lừ lừ đầy vẻ cô hồn, có tia đỏ như say rượu. Còn tên đồng bọn cũng dữ dằn không kém, nhác coi đã biết loại quen giết người như ngóe. Bất giác chàng trai nhướng mày, lắc đầu dùng giọng Quan

Hỏa bảo:

– Cái “Nị” lầm rồi! Mấy chai mà đã trông gà hóa cuốc? Công tử, điện chủ nào? Chú mày giết người, định rủ “ủa” vào tù cho có bạn sao?

Tên khách nhe răng cười nham nhở:

– Mấy con chó đú định bắn trộm công tử! Bọn tôi được lệnh thỉnh công tử về ngay có việc cần! Lính nhà nước nghe súng sắp kéo tới, nán lại mất thì giờ!

Vừa nói vừa đưa ló ra một tấm thẻ đồng giống hệt cái thẻ của Thái Kiệt đánh rơi. Dũng liếc kín Năm Lực, lóe ý định la, lập tức đứng phắt lên, nhún vai buông gọn:

– Đi thôi!

Miệng nói, tay ném mấy đồng bạc “xòe” lên bàn, cùng Năm Lực theo hai tên khách cô hồn xuống lầu, mặc sau lưng cả quán rượu ồn ào như vỡ chợ.

Cả bốn vừa lên ngựa đi, thì lính tuần ập tới. Tên khách cô hồn cười thé:

– Cho lập biên bản cả năm không tìm ra thủ phạm! Bọn chó tới số, dám chọc cả công tử Thập Điện!

Vó câu bay nước đại, đào mấy phố trấn biên, rồi tiến ra bờ sông. Thái Dũng,

Năm Lực đi bên hai tên khách, lạnh lùng như không. Cả bọn đến cầu Trấn Phòng.

Lúc đó khoảng mười giờ đêm, khách chơi từ bên đất Tàu về từng đoàn, cười nói luôn miệng. Đương thời, nhà chức trách Đông Dương vẫn cho dân qua lại mua bán, đánh bạc, khuya về đầu cầu bên này chỉ đặt một vọng gác thường, cần lắm mới tăng cường.

Tên khách đánh ngựa lên cầu, còn chào hỏi lính gác có vẻ quen thuộc lắm.

Hai thầy trò Năm Lực cứ lẳng lặng theo sau. Sông khuya hiu hắt gió biên thùy. Vài con đò xuôi ngược, vọng lên câu hát mang mang. Cả bọn vượt qua cầu

Trấn Phòng sang đất Tàu. Thái Dũng càng lấy làm lạ khi thấy dân Hồ Kiều (Ho

Kéou) cả bọn lính Tàu đều chào chàng rất lễ phép, vừa thấy mặt đã tíu tít chạy ra nhấc luồng cản.

Gã kia trợn mắt:

– Điện chủ đột ngột đi đâu không biết. Đầu lĩnh chưa rõ sao? Hình như “người” xuống “Địa Võng”?

Hết Thiên La đến Địa Võng, Thái Dũng nghe lạ tai, chưa kịp ngỏ lời, bỗng tên khách dẫn lối kính cẩn:

– Chắc có việc hệ trọng, xin công tử đi Địa Võng ngay cho kịp!

Dũng gật đầu, theo một tên lộn lại Hồ Kiều. Còn một tên ở lại.

Qua cầu Trấn Phòng, ba người trở về Lào Kay.

Thái Dũng chẳng biết Địa Võng là gì, may tên khách cứ xăm xăm đi trước, loanh quanh qua trấn đi mãi, ra khu ngoại. Ánh điện lùi dần, rồi chìm sau cây cối, sương đêm, Thái Dũng thấy ngựa đi trên một con đường dốc, hình như lối đi ChaPa, chợt rẽ vào một vùng vắng vẻ, rậm rạp.

Tên khách dừng cương. Hai người định thần chú mục, thấy đứng trước một cái nghĩa địa rộng bốn bề không một bóng người, xa nhà dân, ánh đèn thị trấn heo hút trong sương. Nghĩa địa có vẻ bỏ hoang, cổng rào đã đổ nát, côn trùng rền rỉ khóc than, nghe như tiếng cô hồn thiên cổ từ lòng đất dâng lên… ai oán tiếng sầu.

Tên khách rúc một tràng cú mèo. Có tiếng cú vọng cuối tha ma.

Tên khách vụt im lặng, thì thào:

– Công tử! Sao lại “hiệu cấm”? Bữa qua điện chủ truyền riêng âm hiệu, có dặn hiệu đáp phải thêm ba tiếng một! Công tử chờ chút, để tôi vào hỏi xem.

Dứt lời, hắn thót xuống ngựa đi luôn vào nghĩa địa. Nhanh như cắt Thái

Dũng cũng rời lưng ngựa, vút theo. Chàng dụng kỹ thuật xà phi, lao sát đất, giữa những ngôi mộ đen sì, vừa đến cuối bãi Tây, bỗng nghe thoáng có hơi gió lạ, tiếp theo một tiếng “phập” rất ngọt.

Lúc đó, Dũng ẩn cách tên khách độ mười thước, vừa ngóc đầu lên, vụt thấy một vật đen đen tròn tròn bay ngược lại. Nhanh như điện, chàng trai xuất thủ chộp phăng lấy, vừa định bóp nghiến vùng dậy thót người, sực cảm rõ vật nóng hổi, ướt sũng. Chú mục, mới hay chính là một cái thủ cấp vừa bị hớt bay đẫm máu.

Cái đầu tên khách dẫn đường! Êm như không, chàng trai họ Lê ngồi thụp sau một nấm mồ xây. Ngay lúc đó, có tiếng chân chạy thình thịch tới gần. Nhờ ghé sát nhìn ngược lên, chàng thấy bóng người cao lảnh khảnh in rõ vào nền trời đêm, một người cụt đầu đang chạy, bước rất dài, coi gớm ghiếc. Được vài biếc, cái thây không đầu vấp phải cạnh cạnh mồ, lập tức ngã sấp xuống, nằm thẳng cẳng ngay cạnh Dũng, cần cổ phun phì phì như vòi rồng!

Thì ra chính là thây tên khách, chừng thấy chi ghê gớm, bỏ chạy, và đã bị hớt bay đầu lúc cắm cổ chạy.

Cái xác cứ tiếp tục làm việc theo lệnh óc đã ra. Như bên Tây trước, có một tử tội hẹn đao phủ hễ đếm đến ba, hãy chém, anh ta mới đếm được hai dao đã phập bay đầu, nhưng cánh tay tử tội cứ tiếp tục hạ xuống làm hiệu, và cái mồm vẫn dõng dạc đếm “ba” tuy đã nhảy xuống chậu đồng!

Biết có chuyện dữ, Thái Dũng lắp đầu tên khách vào cổ hắn và giạt ra không tiếng động. Lạ thay! Lại im ru, chỉ có tiếng gió thổi rì rào qua nghĩa địa.

Lập tức Dũng lùi ra cổng khẽ bảo Lực:

– Tránh ra, dấu ngựa mau! Đợi tôi!

– Tên khách đâu?

– Bay đầu rồi! Tử thần ẩn trong đó!

Lực rón rén dấu ngựa đi.

Dũng tiến vào, vờ chiếu đèn bấm lia lẩm bẩm:

– Quái! Nghĩa địa như có ma?

Nhờ ánh sáng lia, chàng đã quan sát được toàn địa hình.

Thì ra là một bãi tha ma bỏ hoang từ lâu, chính là một cái nghĩa địa chôn giặc Cờ Đen xưa, thời Lưu Vĩnh Phúc được triều đình nhà Nguyễn phong chúa biên thùy, đóng tổng hành dinh, thu thuế mấy cõi Lào Kay, Hà Giang…

Mấy phía có núi đồi, tha ma khá nhiều cổ mộ có cái xây cả nhà mồ.

Dũng tắt đèn bấm, men mộ, tiến đến ôm xác tên khách nương bóng tối, lần vào tít trong. Áp tai không một tiếng động.

Chàng rúc lên một tràng cú mèo.

Lập tức có tiếng đáp lại hệt ban nãy.

Dũng tiến về phía cửa phát tiếng cú, được mươi bước vụt ẩn sau một ngôi mộ cao, đẩy mạnh cái xác tên khách ra, đồng thời tụ điện lực thật kín đẩy gió thốc vào lưng cái xác. Cái xác lắc lư “đi” về phía căn nhà mồ xế trước.

Lập tức, từ trong một luồng ánh sáng bay lia véo ngang mình cái thây tên khách.

Chỉ đợi có thế, Thái Dũng thả vụt ra một đồng bạc “xòe”. Nghe véo một tiếng như xé lụa tiếp liền tiếng “huỵch” trong nhà mồ.

Dũng xẹt vào, thấy một hình thù trùm mặt, quần áo đen rộng, nằm giẫy đành đạch, cạnh một cánh tay rụng. Nửa người bị cắt đôi như cưa tiện, gần rời.

Dũng thất kinh kêu lên:

– Phụ thân! Phụ thân!

Và toan chạy lại đờ, bất thần trong buồng, có một bóng trùm kín mặt vọt ra, chân trước, quát thầm:

– Ngốc tử! Chạy mau! Đâu phải cha ngươi! Chạy mau!

Nhưng nghe thế, chàng trai càng điên đầu. Bất phân hư thực, chẳng còn rõ ai bạn ai thù. Bèn dạt ngang nhìn, bỗng giật nảy mình nhận ra cái bóng quen quen, còn đang ngơ ngác, suy đoán, cái bóng đeo chuỗi sọ đã phát cười chìm lạnh:

– Lê cẩu! Không trốn, biết điều đó! Ngươi dấu vù tung tích, lại ra điều ẩn thân luyện công, hành động làm ta mất công đi phá hốt điện đến nay còn hai địa trong tha ma Cờ Đen… lại tụ cả dưới huyệt mồ đợi ta! Còn nửa gia phả nữa đâu? Đưa đây!

Bóng vừa ra cười gằn:

– Quỷ Truyền Kiếp! Đừng hòng! Tiếc thay ta phải gặp mày sớm hơn dự định!

– Dũng! Chạy mau! Đã có ta ngăn!

Vụt! Cả hai cùng xuất thủ! Từ hai lòng bàn tay bóng mới bỗng sáng rực, phát ra hai luồng xanh lè tựa ma chơi, đánh thốc vào bóng cầm gậy. Bóng này cũng phát ra hai luồng khí đen sì như hai con thuồng luồng nhe nanh múa vuốt chụp bổ lấy luồng xanh.

Bùng! Bùng! Liền hai tiếng tựa điện trời quật nhau cả hai cùng bật lùi trở lại. Bóng mới ngã xẹp xuống loạng choạng, ngực áo đen hộc ra một búng máu.

Bóng đen hoành thân phát tiếng rờn khâu.

– À! Hấp thụ khí cốt, luyện chưởng lão tinh chưa thành đã gớm lắm! Để sống sao được!

Dứt lời, buông tay áo rộng phất vụt. Nghe véo một tiếng bay ra một vật đen sì bổ ập xuống bóng kia. Bóng này chừng tiêu lực, cổ lắc mình giạt tránh, một vật đen đảo xé, nhanh như chớp sà xuống, thế dữ lạ.

Chắc Dũng bất phân thù bạn, ngửa mặt coi, sực nhận ra đó là một cái đầu sói lúc nhe nanh, nghĩ tới cái chết ghê gớm của bọn quân canh vừa rồi, lập tức phất tay thả luôn ra một đống bạc xòe.

Chát! Bạc xòe chạm dầu sôi, tóe lửa, mất tăm. Thái Dũng thất kinh, vì qua cuộc thử hiệp với Đông Quân, tuy bị chém ngoài ba bộ, nhưng trong vòng hai mươi bộ kình điện của chàng rất mạnh, lẽ nào đồng bạc mất tiêu. Bỗng lại nghe véo véo, đầu sói lại đảo về phía bóng chàng tiếp liền tiếng xoảng dòn.

Thì ra đồng bạc lọt đúng vào miệng sói, lập tức, chui tuốt ra phía sau.

– Chà! Nhỏ con lợi hại! Luyện được cả kiếm phịa.

Dứt lời, phất tay thả ra một trái hỏa mù, cả con biến mất.

Dũng định vọt theo, bỗng nghe tiếng “véo véo” ập tới, bóng mới vật lạ bên khẽ bảo:

– Rút mau! Chớ chậm! Ngoài bốn mươi bộ con Quỷ Truyền Kiếp này lấy đầu ngươi như chơi!

Dũng vừa định hỏi đã thấy một luồng sáng rõ từ ngoài bay vào, vo vo như sáo diều cháy xả xuống. Dũng thả luôn đồng bạc xòe, vừa chạm luồng sáng, đã bị một luồng khác xúc tới, nhanh hiểm dị thường. Đang cơn nguy bỗng bóng đứng bên đậu nhẹ vào góc vách.

Sàn sụp xuống, mang cả hai xuống theo, còn nghe trên đầu tiếng xé gió.

Kiếm báu lia đứt phăng cột nhà đổ sụp.

Dũng rơi vào khoảng không, bên tai có tiếng khẽ bảo:

– Chớ ngại! Dưới có lưới!

Quả nhiên, chàng nhảy con sao sáo hai chân đã chạm mây đang dập dềnh.

Theo người lạ nhảy ra mới hay tới một đường ngầm, trông lên phía trên tối om.

Bất giác chàng cất tiếng hỏi:

– Người là “Huyệt chủ Địa Võng”? Người là ai?

Bên tai có tiếng thở dài nhẹ rồi Huyệt chủ giục:

– Đi mau! Địa lôi phục sắp nổ trên kia!

Hai người lướt trong đường hầm như gió. Được chừng dăm chục thước, bỗng Huyệt chủ ấn tay vào vách. Dũng nghe rõ cả những tiếng ầm ầm bên trên vọng xuống hầm muốn sụp.

Chưa kịp la hoảng, Huyệt chủ đảo lướt đi, cứ một quãng, lại ấn vào đầu giây ngầm, giây khắc, cả hai đã vượt hết đường ngầm, ra ngoài trời. Dũng thấy mình đứng trên triền núi, ngó lại thấy hỏa cháy rực một góc rừng phía dưới, nẻo Địa Võng.