Chương 4: Đèn lồng Diêm vương

Mô Kim Hiệu Úy Cửu U Tướng Quân

Đăng vào: 11 tháng trước

.

Dân đổ đấu giỏi tìm hầm nhỏ, chúng tôi mò được tổng cộng mười tám cái hang trong núi, có đường vào thì tất cũng phải có đường ra, mà đường ra không ở đâu khác, mười phần thì tám chín phần chính là ở trong quan quách Tần vương. Người xưa tương truyền, long mạch tất có long huyệt. Long huyệt hay còn gọi là “Giếng vàng”, một long mạch chỉ có duy nhất một giếng vàng. Giếng vàng thông thường không quá lớn, đất ở chỗ đó có thể nói chính là tấc đất tấc vàng, cho nên người xưa gọi là giếng vàng.

Thế nào gọi là tầm long điểm huyệt? Cái này thì phải hỏi các thầy phong thủy cao tay, thầy tới chỉ điểm, đào xuống chắc chắn gặp đất ngũ sắc, chính là nơi thích hợp hạ huyệt. Dưới quan quách đào một cái lỗ, nối thẳng tới “Miệng nước”*, gọi là giếng vàng.

Theo góc độ phong thủy mà nói, giếng vàng trong các mộ lớn thời cổ phần lớn đều ở ngay phía dưới quan quách, nhờ vào nước mà có sinh khí, mồ mả chủ yếu mai táng theo sinh khí. Thời đó Mô Kim Hiệu Úy chủ yếu tận dụng sở trường, lúc ẩn lúc hiện, tránh lầu son gác tía, mộ lớn đá to, chui thẳng vào huyệt qua giếng vàng lấy bảo vật. Nếu không nhờ tay nghề tuyệt đỉnh này, chỉ hai ba người làm sao có thể mở được lăng mộ đế vương?

* Miệng nước: Đây là nơi dòng nước bắt đầu chảy vào huyệt, một khu làng hoặc dải đất đặt mộ. Các nhà phong thủy cho rằng, nước chảy là huyết mạch của long khí, là hình thái bên ngoài của sinh khí, tượng trưng cho của cải vượng suy.

Giếng vàng nằm ở một trong mười tám lỗ, nhưng muốn chui qua giếng vàng mà ra ngoài phải nhằm lúc mạch nước khô cạn, thời điểm có nước thì không vào được. Hơn nữa trên thực tế giếng vàng cũng có cái lớn cái nhỏ, có cái chỉ nhỏ bằng quả đấm, anh có thuật rút xương cũng không chui qua nổi. Có điều Tần Vương huyền cung quy mô lớn như vậy, giếng vàng bên dưới quan quách chắc hẳn không đến nỗi quá nhỏ. Long mạch ở Ngọc Hoàng điện năm đó đã bị loạn quân phá hủy, núi non sụt lở, mạch nước khô cạn, có lẽ có thể dựa vào giếng vàng mà thoát thân.

Tôi bảo thằng Béo nhặt đầu cung nữ trả về cho người ta, lại nói qua kế hoạch với Răng Vàng và Tuyền Béo một lần.
Răng Vàng nghe nói dưới giếng vàng có thể có một con đường sống liền giơ ngón tay cái: “Hồ gia anh đúng là cao nhân, cứ như có bảy cái đầu vậy!”
Tôi nói: “Câu này anh nói với cái cột điện đi, cột điện cao hơn tôi đó.”
Răng Vàng nói: “Cột điện dù có cao hơn nhưng vĩnh viễn cũng chỉ là một cây gỗ chết, làm sao có thể so sánh với Hồ đại gia được? Không phải Răng Vàng tôi nói vậy để tâng bốc, mà quả thực là tôi đã phục anh sát đất rồi. Người xưa cũng từng nói, đáy quan tài của hoàng thân quý tộc vốn không phải là một phiến ván liền mà thường khảm một mảnh ngọc bích lớn nhằm để nối thông với giếng vàng, gọi là “giếng vàng ngọc táng”. Đối với các tuyệt chiêu phá quan của Mô Kim hiệu úy, phá từ bên trên thì gọi là gọi là “Ngỗng trời đẻ trứng”, đục từ dưới lên thì gọi là “Mò trăng đáy biển!”
Tôi nói: “Cho dù là vậy thì cũng phải theo quy củ, ở mỗi phần mộ chỉ được lấy một món đồ.”
Răng Vàng nói: “Hồ Gia đã xem trọng vấn đề đó thì tuyệt đối chúng tôi cũng không thể xem thường được!”

Thằng Béo nói: “Mẹ kiếp, hai người kẻ tung người hứng cả nửa ngày, trong mắt có còn nhìn thấy tôi ở đây không? Mỗi mộ chỉ lấy một món minh khí hoa mắt mà chọn biết đến bao giờ? Anh nghe tôi này, chăn một con dê cũng là chăn, hai con dê cũng là thả, chẳng thà nhìn trúng cái gì thì nhặt cái đó, hôm nay là ngày đầu năm, thể diện cũng chả cần dùng, da mặt dầy thì ăn đủ, mí mắt mỏng thì nhìn xa!”

Tôi nói: “Mỗi mộ phần chỉ lấy một món đồ là để dễ dàng thoát thân, nếu anh có bản lĩnh bê nguyên cả cái Tần vương huyền cung này đi, tôi cũng không cản.”

Răng Vàng nói: “Lấy minh khí nào hãy để tôi chọn, nếu ngay cả việc này Răng Vàng tôi cũng làm không nổi thì còn cần cái đầu làm gì nữa?”

Tôi gật đầu, Tuyền béo tới góc Đông Nam phía trước thắp một cây nến, chuẩn bị mở quan tài tìm kim tỉnh. Tần vương huyền cung mặt hướng về Nam, lưng đưa về Bắc. Ba người bọn tôi đi vào từ phía Nam, đi ra hướng Bắc, quan tài bảo vật nằm ngang trên bệ đá. Qua đó có thể phán đoán chủ mộ đầu hướng Tây, chân hướng Đông. Như vậy vị trí đốt nến hướng đông nam nằm cạnh vị trí chân chủ mộ..

Tuyền Béo đi lại đốt nến, chân đụng phải một vật, nghe “xoảng” một tiếng, hắn giơ cây đuốc nhìn xuống, thì ra là một bức tượng đồng tử bằng đất sét, lâu ngày bị gỉ, màu sắc loang lổ, đầu tượng không có mặt, dường như đã bị người ta cạo sạch, lại bị Tuyền Béo đụng trúng rơi xuống đất, vỡ mất nửa cái đầu. Quan tài trong phòng trống rỗng, chỉ có năm tượng gốm chôn theo, xếp thành bốn phía trên bục, phía trước bày một chén cơm, thứ Tuyền Béo đụng phải là một trong số đó.
2
Răng Vàng nói: “Tượng đất không đáng giá, đồ tùy táng quan trọng phải là đồ thật, không có đồ thật mới phải dùng đồ thay thế như gà đất, chó sành. Tượng gốm trong Tần vương huyền cung, có lẽ hàm ý là đông con lắm phúc, kéo dài vạn kiếp.”

Tôi nói: “Tượng gốm trong Tần vương huyền cung không chỉ có một, mặt mũi lại bị cạo sạch, phương vị bày trí cũng không đúng quy tắc, có thể không phải là tượng đất chôn theo, không chừng ở đây có quỷ!”

Tuyền Béo nói: “Bố khỉ, giả thần giả quỷ hù người? Tôi cũng thấy là lạ, theo như ý anh thì cái đống này là yêu tinh đúng không?” Nói xong, hắn cười khan hai tiếng lấy thêm can đảm, Tần vương huyền cung sâu thẳm mênh mông, tiếng cười vọng lại còn khó nghe hơn quỷ khóc.

Răng Vàng nghe được, chân tóc dựng đứng lên, cúi đầu nhìn, thấy trên mặt tượng đất sét nứt ra lộ ra một khuôn mặt người nho nhỏ trăng trắng, thì ra những tượng đất này vốn dùng để giấu xác. Trên miệng tử thi đầy oán khí nhưng không thể nói ra được, chẳng lẽ là oan hồn? Mặt hắn biến sắc, sợ chọc tới tiểu quỷ, vội châm ba cây hương nắm trên tay, vái lạy bốn phương tám hướng, miệng lầm rầm niệm: “Bọn ta vô tình mạo phạm, đừng trách bọn ta quấy rối! Oan có đầu nợ có chủ, các ngươi có hận cũng nên hận người trên bảo đài kia mới phải!”

Tương truyền từ thời Hán, trong mộ Đế vương có một loại tượng sống, tức là cuốn người sống trong đất sét, nung thành tượng đất, máu thịt đều hòa cùng một thể với đất sét, bên trong chỉ còn lại tro đen, đến hai triều Nguyên Minh, cũng có tục mang đồng nam đồng nữ nung thành tượng gốm có điều tục này cũng không phổ biến.

Dân gian tương truyền người sống chôn theo oán khí rất nặng, âm hồn không tan. Quỷ người vốn khác biệt, quỷ không thấy người, người không thấy quỷ, có điều trong hoàn cảnh đặc biệt thì có thể, ví dụ như trong cổ mộ âm khí nặng, khi dương khí của người sống thấp thì có thể dễ dàng bị quỷ nhìn thấy nhưng cũng chỉ mờ ảo mơ hồ không rõ ràng. Có điều bất kể bạn là ai, chỉ cần để cho quỷ nhìn thấy bạn, nhất định nó sẽ coi bạn là kẻ thù lúc còn sống mà trả thù. Tương truyền, trên đỉnh đầu và hai bên bả vai người sống có một ngọn đèn, gọi là “tam muội chân hỏa”, có bảo bối đó người không thấy được quỷ mà quỷ thấy bạn cũng phải tránh, người thấy được quỷ đa phần đều là người dương khí thấp.

Giới trộm mộ khi hành sự ít nhất cũng phải mang theo móng lừa đen, chỉ có ác quỷ là móng lừa đen không đối phó nổi. Ác quỷ có oán khí quá sâu, sau khi chết không thể vào luân hồi, chỉ muốn báo thù, oán khí càng nặng, nó nhìn thấy người mà người nhìn nó cũng càng rõ. Các truyền thuyết mê tín dân gian đều mô tả lại như vậy, mê tín quá cũng không được, nhưng quá chủ quan thì cũng thiệt thân.

Đừng nghĩ Răng Vàng nhát gan mê tín, cho dù có quỷ thì căn bản cũng không ảnh hưởng tới ý định trộm minh khí của hắn. Tuyền Béo là kẻ gặp tổ ong lớn cũng dám chọc, binh đến thì tướng chặn, nước tới thì đất cản, đừng nói tượng gốm chôn theo trong Tần vương huyền cung, chẳng qua cũng chỉ là một mảng đất sét, đụng nhẹ là có thể rơi cả nửa cái đầu, cho dù là thiên binh thiên tướng, nhiều lắm cũng chỉ có năm, sáu cái, có gì mà đáng sợ? Chờ Răng Vàng lạy một chặp xong, Tuyền Béo đốt một cây nến trước tượng gốm, không biết có phải trong phòng đặt quan âm khí quá nặng hay không, ánh nến chuyển màu xanh ngắt, chiếu lên mặt người nhìn như quỷ!

Tôi chột dạ nói với hai người bọn họ: “Năm đồng tử trước quan quách bị chôn sống trong đất sét chắc hẳn không phải là tượng đất chôn theo, mộ Tần vương là tòa huyền cung chín tầng, trên vách phòng để quan tài đục đẽo chằng chịt hình thù kỳ quái với lời chú, lại có năm đồng tử bị chôn trong đất sét, mục đích để làm gì đây?”

Về quy tắc chôn cất trong phong thủy, người giàu sang hay bần tiện vốn là số mệnh định trước, không có số làm Hoàng thượng, mặc long bào cũng vô ích. Mệnh chân long thiên tử là cửu ngũ chí tôn, cửu ngũ là sáu mươi bốn quẻ ba trăm tám mươi bốn hào trong hào chí dương, chí tôn chí cao nhưng đường sống lại không cao. Người xưa vốn mê tín đặc biệt tin vào số mệnh, mệnh do tứ trụ ngũ hành bát tự quyết định, mà trong long mạch vận khí vô cùng quan trọng, người hợp mệnh mai táng có thể mượn long khí. Tuy không biết là có tác dụng thật hay không nhưng trong âm dương phong thủy quả thật có loại phương pháp mai táng này. Quan quách Tần vương chôn phía trên long huyệt, lại bố trí năm đồng tử đất có long mệnh, tương đương với năm con tiểu Long, vừa vặn tạo thành một thế “Năm rồng nâng thánh giá”!

Răng Vàng nói: “Mẹ kiếp! Lại còn năm con rồng nâng thánh giá nữa*, thăng thiên thì đã thăng thiên mẹ nó rồi, đầu thai chắc cũng đã đầu thai rồi, chúng ta lấy minh khí chắc sẽ không gặp trở ngại gì đâu!”

Tôi còn chưa nói hết, các đồng tử hợp mệnh chôn theo bày thành thế “Năm rồng nâng thánh giá” trước quan quách Tần vương ở đây mặt mũi đều bị cạo sạch, cổ nhân nói: “Không có khiếu** thì không thể thông linh”, tượng đất hay cả con tò he cũng nên có khiếu, nếu như là chỉ một hai bức tượng đất không có mặt còn có thể giải thích là do niên đại lâu năm nên mặt mũi bị vỡ rụng, nhưng ở đây cả năm bức tượng mặt mũi đều có dấu vết bị người ta nạo gọt thì chỉ có thể giải thích theo cách của Răng Vàng – làm cho oán khí tích tụ không thoát ra được, khiến cho thánh giá bên trong quan quách không những không thể thăng thiên lại còn bị năm đồ quỷ này quấn lấy, cát hung điên đảo, tạo thành thế “Năm quỷ quấn thây”, tôi phân tích như vậy đã đến nơi đến chốn chưa?

* Thánh giá: Chỉ vua
** Khiếu: Thất khiếu – hai tai, hai mắt, miệng, hai lỗ mũi.

Răng Vàng nói: “Mới chỉ đến dạ dày* sao? Tôi thì thấy cũng đến thận rồi! Hồ gia anh nói xuống chút nữa chắc tôi tè ra quần!”

* Ở đây Răng Vàng dùng từ đồng âm khác nghĩa, bên trên Hồ gia nói 位 (vị – wèi), nghĩa chỉ nơi chốn, vị trí.
Bên dưới Răng Vàng dùng chữ 胃 (vị – wèi) đồng âm với 位, tuy nhiên 胃 nghĩa là “dạ dày”

Tuyền Béo nói: “Bố láo, bản chép tay của tổ truyền bã đậu nhà anh chỉ toàn cổ xúy cho mê tín, tầm bậy tầm bạ, mang chùi mông còn không đủ, nên xé đi thì hơn!”

Tôi nói: “Mê tín hay khôn còn phải chờ xem mới biết, tôi chỉ không hiểu ai lại nạo đi mặt mũi của những tượng đất đó? Các anh cũng thấy đó, bốn vách không có dấu hiệu bị đục phá, quan quách cũng không có dấu vết từng bị mở.”

Tuyền béo nói: “Cũng không phải là không có, trên cửa điện cẩm thạch không phải vẫn còn treo một vị đó à? Nếu anh là người bị chôn theo, anh lại không oán hận chủ mộ thêm vài phần rồi mới chết à?”
Thằng béo vốn là hạng người nhảy qua tường thì rớt lại lỗ tai (không nghe lời người khác), từ trước đến giờ luôn lớn gan làm bậy, trong lúc nói chuyện đã nhảy lên bảo đài ba mươi sáu cánh sen, đưa đuốc cho Răng Vàng, đeo bao tay, dùng sức đẩy nắp quách ra.

Tôi vốn không tin một cung nữ chôn theo lại có thể chết tới hai lần, lại không nghĩ ra nên làm thế nào mới đúng nên bảo Tuyền Béo chớ vội động thủ, lấy cây đuốc tìm lại lần nữa, phát hiện trên đỉnh mộ thất có một cửa hang, đối diện với bia đá bên dưới. Răng Vàng sụp xuống hít một hơi lạnh: “Đạo động!”

3

Tôi nói đó không phải là đạo động, đường do kẻ gian đào hang trộm mộ đào mới gọi là đạo động, dùng tiếng lóng trong nghề mà nói, cái này gọi là “Miệng hầm”. Mộ thất tiếng lóng thường gọi là hầm đất, miệng hầm là đường sống do phu xây lăng mộ âm thầm đào bới. Kích thước của Tần vương huyền cung lớn như vậy, dân phu đào lăng chắc chắn không ít. Thợ có kinh nghiệm sẽ đào sẵn một đường sống trước khi hoàn thành công trình để tránh bị chôn sống diệt khẩu. Ám đạo mà phu mộ đào đó được gọi là miệng hầm, có điều rất khó tìm, bởi vì miệng hầm đó sẽ phá hỏng kết cấu phong thủy, nên phải làm sao càng bí mật càng tốt, động chạm đến đất trên cung là đại kỵ của long mạch trong lăng tẩm, một khi bị bắt chính là tội chu di cửu tộc. Có lẽ lúc hạ táng mộ chủ đã chôn sống một số phu mộ ở điện thờ phụ. Một hoặc vài người trong số đó đã lưu lại đường này, lúc chạy thoát thân đã thuận tay đào mở đỉnh mộ ở hậu thất, xuống nạo mặt tượng đất chôn theo để trả thù chủ mộ, sau đó mới chui qua miệng hầm để ra ngoài, lúc ấy cung nữ chôn theo cũng đã thắt cổ chết rồi. Việc phu mộ không mở quan tài lấy bảo vật cũng không có gì là lạ, trước mặt có vương pháp, không ai dám mang bảo vật chôn theo của đương triều ra ngoài bán lấy tiền. Bình thường sẽ mai danh ẩn tích, chờ đến khi triều đại thay đổi, lại theo đường cũ vào huyền cung, lấy trộm minh khí trong quan tài.
Có điều những người này sau khi trốn ra ngoài có lẽ đã rơi vào tay quan phủ hoặc vì lý do nào đó, cuối cùng cũng không xuống lại nữa.

Lối đi do phu mộ đào trộm thường khá nhỏ, cũng không chắc chắn, trải qua nhiều năm như vật, không biết còn đi nổi nữa hay không. Tôi đang nghĩ có nên đi con đường kia hay không thì Tuyền Béo đã cùng với Răng Vàng mở quan tài rồi. Hai người họ chụm chân dồn sức rồi chân trước chân sau căng lên tạo thành dáng như hổ leo núi, cố sức đẩy nắp quan tài về một phía. Phiến gỗ lim vân rồng vàng chắc nặng như sắt, mọi người dốc toàn lực, gồng vai đẩy mới xê dịch được nắp quách một chút. Bỗng nghe một tiếng vang quái dị, từ quan tài xông ra một luồng khí đen, tràn ra bảo điện âm u. Khí đen bị ánh lửa chiếu vào chuyển từ đen thành vàng, lại từ vàng chuyển trắng rồi tản ra như mạng nhện, có tiếng “xoạt xoạt” vang lên, bụi đất trên nóc điện như bị luồng khí đen va phải ào ào rơi xuống.

Cây đuốc trong tay tôi đụng phải màn sương mù dày đặc, vụt tắt. Cây nến trong xó xỉnh dao động mấy cái, ánh nến màu vàng chỉ còn chừng như hạt đậu, tắt rồi lại sáng, nháy mắt lại tắt, bốc lên một làn khói.

Răng Vàng tự động viên mình: “Không quan trọng, bị quỷ thổi mới là quỷ thổi đèn, không phải quỷ thổi thì có gì phải sợ?”
Tôi nghĩ thầm: “Răng Vàng anh cũng lắm lý lẽ thật, đúng là khi quan quách nổi lên một trận gió lạnh, thổi tắt nến, không gặp quỷ đi ra nhưng đèn đuốc bị tắt, hoặc là tắt rồi lại sáng đều không phải điềm tốt, phải quỳ lạy chủ nhân của mộ, theo đường cũ lùi ra. Có điều đi được tới nước này, cho dù phía trước là chảo dầu sôi, chúng tôi cũng nhất định phải nhắm mắt nhảy xuống! Mặc dù nói rằng lúc Mô Kim trộm mộ nến bị tắt, chắc chắn sẽ xảy ra biến cố, nhưng tôi với Tuyền Béo vốn không quan tâm hung thần ác sát. Nhìn đám đồng nam đồng nữ chôn sống theo trong huyền cung có thể thấy Tần vương vốn là kẻ tham lam tàn nhẫn, không đào bới vài gian để dâng lên trời thì thật có lỗi với tổ sư Mô Kim gia truyền rồi!”.

Tôi trấn tĩnh lại, lấy đèn pin ra, chùm ánh sáng chiếu vào quan quách, phiến quách chính giữa gọi là “tử cung”, bên trên phủ áo bào thêu mười hai con rồng vàng, bên trong là một khối thủy tinh đặt ngay ngắn. Quan tài vua sau khi hợp táng gọi là “tử cung”, Tần vương không phải Hoàng thượng nhưng quan quách và “tử cung” bố trí hoàn toàn theo cách thức “đại hành” của Hoàng đế.

Khí đen mù mịt bao trùm chính điện, mùi hôi thối bốc lên khiến người ta ngạt thở, ánh sáng đèn pin trên tay tôi không đủ, đuốc lại tắt. Tôi nhớ ra trong hang rồng còn có cây đèn dầu, tương truyền đốt trường minh đăng (đèn thờ cháy suốt ngày đêm) trong hầm mộ không được thắp lên, nếu không lúc mở quan lấy bảo vật sẽ bị chủ mộ nhìn thấy mặt. Tới bây giờ, tôi vẫn không tin chuyện này, liền quẹt diêm đốt cây đèn mạ vàng, hầm mộ sáng lên một chút. Ba người lùi tới dưới đài sen đợi hồi lâu, trong hầm mộ cũng chưa có chuyện gì xảy ra, lúc này bọn tôi mới tiến tới nâng nắp quách, khệ nệ vần sang bên cạnh, dựng thẳng ở cạnh quan quách. Đại điện Tần vương huyền cung tuy lặng ngắt không tiếng động nhưng năm móng rồng vàng trên đỉnh đầu phủ đầy bụi đất tích tụ lâu ngày cũng tạo thành một loại áp lực vô hình khiến người ta cảm thấy lạnh buốt sống lưng, toàn thân nổi da gà.

Tuyền Béo vén hai tầng áo quan loang lổ nhấc “tử cung” trong quan tài lên, chỉ thấy Tần vương mặc mười mấy lớp cổn long cẩm bào (lễ phục của vua), nằm ngửa ở chính giữa “tử cung”, đỉnh đầu đội mũ, mặt to như cật lợn, từng món trân bảo quý hiếm chưa thấy bao giờ được xếp chung quanh tỏa hào quang chói mắt, san hô bảo thụ, bàn thờ Phật mạ vàng, ngọc minh châu, đủ loại vàng bạc ngọc khí nổi lên giữa mảnh gấm thêu rồng rực rỡ, lóe lên ánh huỳnh quang sáng rực. Nhưng ngoài dự đoán của mọi người, hai bên “bánh trưng” đều có một phi tử chôn theo, đều là mỹ nhân ngọc ngà, toàn thân bọc áo niệm, hình long phượng uốn lượn, trên mũ phượng đính đầy trân châu, khi chùm sáng đèn pin chiếu vào, trên mặt liền hiện ra một tầng ánh sáng xanh.

Răng Vàng cũng không ngờ trong quan quách lại có hai người ngọc, thật là hiếm thấy. Chúng tôi nín thở cùng quan sát những món minh khí kia từng chút một tới hoa cả mắt. Thi thể trong “tử cung” đều bọc áo liệm, phía trên xâu những xâu tiền vàng, chính giữa thêu hình rồng cuộn, chung quanh là sóng nước cùng họa tiết hình dơi, gọi là “phúc hải vô biên”, kết hợp với “vạn tự bất đáo đầu* bát bảo cát tường huy**”, giữa bánh xe và lọng được viền đá mắt mèo xanh – tổ mẫu của các loại đá quý, lại dùng ngọc minh châu tô diểm, tượng trưng cho trăng sao trên trời, hơn ngàn đồng tiền vàng có lỗ vuông ở giữa đều khắc bốn chữ “tiêu tai duyên thọ” (trừ tai ương, kéo dài tuổi thọ).

* Vạn tự bất đáo đầu: Vạn tự bất đáo đầu, hay còn gọi là vạn tự cẩm, vạn tự văn, vạn tự quải, vạn bất đoạn, vạn tự khúc thủy đẳng. Là một loại họa tiết hình học mang ý nghĩa cát tường trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, vạn tự bất đáo đầu sử dụng nhiều chữ (卐) nối lại, là loại hình vẽ kéo liên tục ra bốn phương. Trong đó, 卐 – ngụ ý cát tường, “bất đáo đầu” – ngụ ý kéo dài không dứt, vì vậy, “vạn bất đáo đầu” có hàm ý chỉ cát tường không dứt, vạn thọ vô biên.
– theo wikipedia TQ –

01

02

Họa tiết “vạn tự bất đáo đầu” cơ bản và trên vải.

** bát bảo cát tường huy: Hình “bát bảo cát tường”
Bát bảo cát tường hay còn gọi là “bát thụy cát tường”, gồm tám hình vẽ mang ý nghĩa cát tường thường xuất hiện trong hội họa của người Tây Tạng. (Tám pháp vật này có sự khác nhau giữa các giáo phái, ở đây mình tham khảo Phật giáo, ngoài ra “bát bảo” của Thiên Y phái và Bạch Y phái ở Ấn Độ có khác đôi chút về hình vẽ).
Trong nhà Phật là tám pháp vật tượng trưng cho cát tường, viên mãn, hạnh phúc, gồm có các hình vẽ: pháp luân (bánh xe), bảo loa (con ốc), pháp tán (cái dù), bạch cái (cái lọng), liên hoa (hoa sen), bảo bình (cái vò), kim ngư (cá vàng), bàn trường (cái chậu).
Tám hình vẽ này có thể đứng riêng lẻ, cũng có khi hợp thành một thể.
-theo wikipedia TQ và Baidu-
03
“Bát bảo cát tường” đơn lẻ
04

“Bát bảo cát tường” hợp thể.

Hai bên lọng gấm nhét chừng mười đĩnh vàng, năm lượng năm một đĩnh, tất cả mười phần đều là vàng Vân Nam?. Trên người Tần vương treo một hộp bảo, cũng bọc lụa vàng, bên cạnh có tràng hạt, bảo kiếm, ngọc như ý, chén mã não, bình thủy tinh, vàng ròng bạc trắng, đồi mồi lấm tấm, sừng tê giác, ngà voi. Bao nhiêu trân bảo không đếm xuể, có những thứ đừng nói là thấy mà ngay cả nghe nghe cũng chưa từng nghe qua. Theo sử gia nhà Minh ghi lại, châu lấy từ biển, vàng lấy từ Vân Nam, gấm dệt từ Ngô (vùng Nam Giang Tô), tuyệt đối không kém hơn cống phẩm triều đình. Tử cung Tần vương bày đầy vật bồi táng, hàng trăm loại trân bảo phát ra sắc sáng kỳ diệu lóa mắt người.
Ba người bọn tôi không hẹn mà cùng xoa xoa mắt, chưa từng thấy qua trân bảo nhiều cỡ này, không biết nên hạ thủ từ đâu.

4
Tuyền Béo nói: “Hai con mắt Răng Vàng anh vốn không phải chỉ để thông khí, anh đảo một cái xem nên lấy cái gì!.”

Răng Vàng dường như rất sợ kinh động đến Tần vương, nhỏ giọng nói: “Bánh chưng vẫn chưa rữa nát, dường như trong miệng có ngậm châu ngọc…”
Tuyền Béo nuốt nước miếng một cái: “Tôi có tuyệt chiêu móc cái này, để tôi lấy ra cho mà xem!”

Răng Vàng nói: “Chẳng qua là ngọc ba ba thôi, thứ đó bị nhét vào miệng mấy trăm năm thì mất hết tinh khí, chẳng ai muốn lấy, lấy ra cũng không đáng tiền. Không phải chúng ta đã nói rồi sao? Lấy gì là do tôi lựa chọn! Tôi đã gặp qua nhiều minh khí, không phải chém gió, trong quan quách chắc chắn còn có vật chí bảo, một thứ có thể đội cả quan tài!” Mặc dù Răng Vàng đã gặp qua không ít đồ tốt, nhưng tử cung Tần vương đang mở trước mắt cũng làm cho hắn hoa cả mắt.

Anh nói kim nguyên bảo đáng giá, không sai, vàng thật, bạc trắng thì không gạt người, thời kỳ đầu những năm tám mươi, một lượng hoàng kim đáng giá ba vạn tiền. Có điều cổ nhân thường nói “bạc trắng, vàng ròng đủ lượng mới có giá trị”. Nguyên bảo đủ lượng phải đúng năm lượng, đúc một đĩnh mà đến năm lượng rưỡi cũng là không vừa vặn – không “đủ lượng”. Hơn nữa nguyên bảo có ấn quan nên về cơ bản cũng chẳng làm ăn được gì? Có thể nói, trong toàn bộ minh khí, kim nguyên bảo là thứ rẻ mạt nhất. Lọng rồng, áo gấm mặc trên người đã đáng giá hơn ngàn chỉ vàng, đá quý viền nạm bên trên khó mà đếm xuể, huống chi chỉ có trong lăng vua mới có lọng rồng, đổi bao nhiêu nguyên bảo cho vừa? Hộp báu trước ngực Tần vương, mặc dù chưa mở ra xem nhưng cũng có thể đoán được, thứ trong đó chính là thụy bảo, phong sách – tương đương với ấn tỳ của Tần vương, nhưng không giống với ấn tỳ, thụy bảo là để người chết mang xuống Âm phủ dùng, bên trên có ban tên thụy. Chỉ nói riêng về giá tiền, lọng rồng bọc xác đã đáng vạn tiền nhưng cũng không thể bằng ấn tỳ. Có điều đối với người trong nghề mua bán minh khí như Răng Vàng, tràng ngọc bên người Tần vương không cần nhìn cũng biết, đây chính là sơn long châu ngàn năm, tuyệt đối là tuyệt phẩm, nếu như trước kia, một hạt châu trong chuỗi cũng có thể đổi lấy một tòa nhà, cả một chuỗi…vậy giá trị tới đâu? Ấn tỳ đáng giá nhưng không thể bán ra, tràng ngọc vừa dễ lấy, lại đáng tiền…

Tôi lo tình hình có biến, cây nến không tắt thì không lo, đằng này gà gáy đèn tắt phải mau chóng thoát thân, nhưng thấy Răng Vàng càng xem càng lấn cấn, do dự không quyết, tôi nóng lòng tìm vị trí giếng vàng, sợ đạp phải trân bảo trong quan tài, đành cất đèn pin, đeo dù kim cương trên lưng, tung người nhảy vào tử cung, nhưng vừa ngẩng đầu liền phát hiện mặt xác chết biến đổi! Gương mặt to đùng trong tử cung đã biến thành màu xám tro, da thịt co rúm lại, móng tay dài ra dị thường. Chuyện trộm mộ mở quan lấy bảo, cương thi bật dậy nhào tới – tất cả đều chỉ là truyền thuyết dân gian dọa người. Thật ra lúc mở quan, thấy xác chết biến đổi đa phần vì quan quách bảo quản thi hài quá tốt. Tôi nhìn chăm chú vào bánh trưng trong quan quách một hồi, không biết có phải nhìn lầm hay không mà mặt của lão bánh trưng khẽ động một cái, như muốn mở miệng hàn huyên. Tôi cảm giác chân tóc dựng hết cả lên, rùng mình vội nhảy ra khỏi quan quách, gọi Tuyền Béo với Răng Vàng coi chừng, đừng đứng quá gần.

Tuyền Béo nghểnh cái cổ dài, chỉ chăm chú nhìn những đồ minh khí trong quan quách: “Thần kinh của anh không nên quá mẫn cảm! Lúc trước tôi thổi vài hơi mà râu lão bánh chưng đã động mấy cái, huống chi anh còn nhảy tưng tưng ở đấy!”

Răng Vàng chỉ tấm lụa vàng bọc xác, bảo: “Đừng để ý đến bánh chưng làm gì! Tôi nhìn kỹ rồi, không nên lấy những thứ khác, trong số minh khí này, phải nói đáng giá nhất là thụy bảo! Không phải Thiên tử thì không thể dùng thứ đó, từ chư hầu trở xuống không được động vào!”, hắn vừa nói liền thò tay ra lấy, nhưng vừa kéo tấm lụa vàng lộ ra áo gấm che thi thể, bên dưới lại có một bàn thờ Phật mạ vàng, chính giữa phía cuối bàn thờ Phật là một tượng Phật ngọc, chính giữa vỏ sò ngọc có một tượng Phật, vỏ ngoài gần như đã hóa ngọc hết, như thật như giả, mà càng nhìn lại càng thấy thật. Bàn thờ Phật khảm bát bảo kết hợp với Phật bằng ngọc phỉ thúy ngồi bên dưới, trên dưới cách nhau một thước. Phật tổ ở vỏ sò ngọc có mặt mũi an tường, hồng hào tự tại, lòng bàn tay hướng lên trên đặt bên trên chân trái phát ra ánh sáng long lanh trong suốt.
Răng Vàng thấy Phật trân châu, bất giác toàn thân phát run, nước miếng trào ra: “Đây mới là bảo vật vô giá! Thụy bảo là đồ mang đi Âm phủ, chưa chắc có người dám xuất tiền, mà cho dù có người dám xuất tiền cũng chưa chắc đã dám gánh trách nhiệm, không giống Phật trân châu phỉ thúy này!” Hắn vừa nói vừa tiến về phía trước, chúi cái đầu to nhào vào quan tài, đèn pin cũng ném xuống đất, ôm lấy Phật trân châu: “Lão Phật ơi!!! Răng Vàng ta cũng là người số khổ, ba đời làm trâu làm ngựa vắt cạn mồ hôi mà sống qua ngày, đến hôm nay được thành chính quả, ta nên cúng ngài cái gì mới tốt đây?”

5
Tôi với Tuyền Béo nhìn tới ngây cả người, nếu không phải Mã Lão Oa Tử chôn sống bọn tôi trên núi, có thể bọn tôi sẽ không tới được đây, không ngờ vẫn còn đủ ba cái mạng, thật là nhân họa đắc phúc, lấy được một tượng Phật trân châu phỉ thúy thế này, từ nay trở đi lời ăn tiếng nói cũng có chút trọng lượng rồi.

Tuyền Béo nói: “Mẹ kiếp! Xem Răng Vàng anh có ra cái hồn người gì không? Tôi thấy anh cả đời này được bãi phân cũng phải dốc hết lòng mề ra! Đừng có động cái là ngã ngửa ra đất như thế, nhanh lên cho tôi!”

Răng Vàng không buông nổi, hai tay nâng Phật trân châu mà nói với Tuyền Béo: “Béo nhà anh cho dù không tin thì tôi cũng phải nói, lần này tôi đúng là “chó chui ống khói” (ý nói rất khó khăn mới gặp được)! Nhìn xem đây là cái gì? Tôi có moi cả họ hàng tổ tông mấy đời ra cũng không moi được ra thứ này! Không phải tôi huênh hoang nói khoác, Răng Vàng tôi ăn chén cơm này không dưới hai mươi năm, minh khí qua tay tôi không mười thì cũng phải được tám ngàn. Các người có thấy đôi tay này hay không? Tay này gọi là tay bắt bảo, minh khí chỉ cần đến tay tôi thì coi như là lấy keo 502 mà dính vào…” Lời còn chưa dứt, sắc mặt hắn bỗng biến đổi, Phật phỉ thúy trân trâu trên tay rớt xuống.
Tôi không hiểu tại sao Răng Vàng lại đột nhiên thất thủ, có điều Mô Kim trộm mộ, ăn cơm dương thế mà làm việc âm ti, có quỷ mới biết sẽ gặp phải những rắc rối gì, chỉ thấy hai tay hắn vừa buông, Phật trân châu liền rớt ngay xuống, tôi đứng đối diện hắn muốn đỡ cũng không kịp.
Tuyền Béo kêu to một tiếng: “A di đà Phật!” – chưa dứt lời đã lao tới, thân thủ mau lẹ chưa từng thấy, trong lúc ngàn cân treo sợi tóc nhào lên chụp lấy, vừa vặn đỡ được Phật trân trâu phỉ thủy rớt từ tay Răng Vàng.
Tôi thầm hô một tiếng “Nguy hiểm thật”, giơ tay lau trán đầy mồ hôi lạnh, lại thấy Răng Vàng không nhúc nhích, mặt hóa đá, ánh mắt vừa hong mang vừa kinh ngạc.
Tuyền Béo giận không làm gì được, nếu không phải tay còn đang nâng Phật chân trâu phỉ thúy, thế nào cũng đập Răng Vàng ngã ngửa.
Nếu như bình thường, Răng Vàng sẽ sớm kiếm cớ chối lủi, nhưng hiện giờ hắn lại không nói tiếng nào, ánh mắt kinh hoàng, hai mắt đăm đăm nhìn thẳng vào quan quách.
Tôi vừa lo không biết có chuyện gì thì đã nhanh chóng nhận ra, nếu nói ở đây có thể sinh biến tôi sẽ không thấy bất ngờ, liền móc ra một cái móng lừa đen, theo ánh mắt Răng Vàng nhìn xuống – Lão Tần vương nằm trong quan quách, chẳng biết đã há hốc miệng từ bao giờ!
Tôi cũng sợ hết hồn, ra ngoài mang theo móng lừa đen hoàn toàn chỉ đơn giản là để lấy tinh thần, không mấy khi thật sự cần dùng đến, lúc ấy tôi không kịp nghĩ nhiều liền vung tay ném cái móng lừa đen, thấy ném trúng liền tự thưởng cho mình một tiếng “tốt”!
Không ngờ móng lừa đen trúng phải đầu Tần vương nứt ra một chút, Tuyền Béo vừa bò dậy từ phía đối diện, mới ngẩng đầu lên móng lừa bay thẳng vào mặt hắn.
Tuyền Béo mắng: “Tiên sư nhà anh lão Hồ, móng lừa đen để ném người sống à? Có biết tới tận bây giờ trên đời còn chưa có ai bị móng lừa đập chết không, có phải anh muốn tôi phá kỉ lục không thế? Tôi dù có lên trời ba bận chín ngày uống nước lạnh, từng ngụm từng giọt cũng phải ghi tạc anh trong lòng!”
Tôi không kịp nói nhiều, lại lôi ra một cái móng lừa đen nhét vào miệng bánh trưng.
Tuyền Béo nói: “Vội vội vàng vàng giở cái trò quỷ gì thế?”
Tôi nói: “Anh từng thấy người chết mở miệng chưa?”
Tuyền Béo nói: “Có quái gì? Người chết đánh rắm tôi còn gặp rồi!”
Lời vừa dứt, trong miệng Tần vương khạc ra một đám lửa ma trơi, lúc xanh lúc vàng.
Những năm trước, thường có lời đồn về ma trơi tấn công người, tương truyền đó là đèn lồng của lão Diêm Vương, người sống mà bị ma trơi tấn công coi như là đụng phải Diêm Vương. Kể cũng lạ, ma trơi giống như vật sống, lơ lửng phía trên quan quách. Theo truyền thuyết mê tín ngày trước, đèn lồng của Diêm Vương là oán khí của người chết, khi gặp ở nghĩa địa thường đuổi theo người, bạn chậm nó cũng chậm, bạn chạy nó cũng chạy.
Bình thường ma trơi thường xuất hiện ở mộ phần, bờ sông, bãi đất hoang, những chỗ đó nửa đêm phần lớn sẽ có một ít lân quang chợt sáng chợt tắt, dân gian gọi đó là ma trơi. Nhưng đèn lồng của Diêm Vương lại không giống, đó là oán khí ác quỷ vồ người. Không giống lửa bình thường, âm hỏa này gặp cái gì liền thiêu cái đó, dính lên da có thể cháy tới xương. Một khi để âm hỏa đụng vào người, dập cũng không dập được, che cũng không che được. Đèn lồng của Diêm vương mặc dù cũng gọi là ma trơi, nhưng thực ra là lửa nấp dưới mộ. Ma trơi rất nhẹ, trong mộ lại không có gió, người đi vào sẽ kéo theo khí, lửa quỷ bèn đuổi theo người. Mộ chủ hạ táng trong huyền cung, nhất định trong thi thể có phốt pho. Nếu kẻ trộm mộ mở quan quách ra mà gặp ma trơi thì không thể không trốn, nhưng anh chạy càng nhanh, ma trơi đuổi càng sát!
Tôi với Tuyền Béo biết lợi hại vội cúi đầu xuống. Răng Vàng lại giống như chim sợ cành cong, xoay người tính chạy, nhưng chân nam đá chân chiêu, như ba ba gặm dưa hấu – lăn một vòng. Tôi liền túm hắn lại, đè xuống bảo đài. Ma trơi phun ra từ thi thể đột nhiên mất hút, trường minh đăng trên hang rồng không tắt, vẫn phát ra ánh sáng leo lắt nhưng đã tối đi rất nhiều so với vừa rồi, xung quanh toàn một màu đen nhánh.

Răng Vàng nằm trên đài sen ôm đầu:”Hồ gia…. Bánh chưng chui ra…!”
Tôi thấy bốn phía không có gì bất thường, nghĩ rằng hắn thần hồn nát thần tính, không để ý.
Tuyền Béo ôm Phật phỉ thúy, vòng qua tới chỗ tôi nói: “Thằng oắt Răng Vàng này, thật là đồ bỏ đi, nếu không nhờ tôi nhanh tay lẹ mắt đỡ để thứ này rơi xuống đất thì anh có khóc tới chết cũng không có chỗ chôn!”
Răng Vàng ôm lấy chân tôi, nói rằng hắn thấy bánh trưng khoác áo quan từ đài ngọc chui ra, vô cùng chân thật!
Tôi vừa nhìn vào quan quách một cái, dưới ánh sáng thâm u của trường minh đăng mặt lão bánh chưng một màu tro tàn, hình rồng thêu trên áo quan cũng mất đi sắc thái, tựa như bị phủ một lớp bụi đất vậy.
Tuyền Béo nói: “Anh gặp quỷ à? Cái này không phải vẫn còn ở đây là gì? Lão Hồ, bây giờ có phải di chuyển lão bánh chưng qua chỗ khác không?”
Tôi nói: ” Giếng vàng ở đáy quan quách, không đẩy Tần vương ra thì sẽ không xuống được…” Đang nói tới việc rời xác, nhưng nhìn Phật trân châu trong tay Tuyền Béo tôi lập tức giật mình! Lúc mở quan quách ra, rọi đèn pin thấy tượng Phật phỉ thúy trân châu lung linh tuyệt trần như thế, vừa mới ôm ra tại sao lại thấy không còn lộng lẫy mà giống một mớ bùn nhão vậy?
Từ xưa truyền lại một câu – “Người sống không ăn cơm người chết”, ý là kẻ gian trộm mộ vào cổ mộ, có thể thấy trái cây điểm tâm tòng táng, qua trăm ngàn năm vẫn không mục nát, nhìn vậy nhưng lại không thể ăn, ăn vào sẽ giống như ăn đất, mê tín mà nói thì là những thứ đó đã bị quỷ ăn rồi. Thực tế thì là bởi đã trải qua thời gian quá lâu, mặc dù trong mộ khép kín, khiến cho bề mặt của chúng không biến dạng nhưng thực tế đã chẳng khác gì bụi đất rồi.
Không chỉ có trái cây điểm tâm trong mộ giống như bị quỷ ăn mà tơ lụa cùng hoa văn họa tiết cũng thế, sau khi quan quách bị mở ra thì chẳng mấy chốc chúng cũng trở nên u ám, mà Phật trân châu chẳng biết tại sao cũng mất vẻ rực rỡ, cầm trên tay còn nặng như chì, vẻ lộng lẫy của trân châu cũng không còn. Tôi còn tưởng do trường minh đăng quá tối nên không nhìn rõ, lại lấy đèn pin chiếu qua – vẫn giống như bùn đất vậy.
Tuyền Béo nóng nảy hỏi tôi: “Lão Hồ, vừa rồi vẫn còn là tượng Phật trân châu, làm sao bây giờ lại giống như bùn đất rồi?”
Tôi nói: “Trong mộ thất tối lửa tắt đèn, có phải là anh ôm nhầm rồi không?” Lời vừa thốt ra, tôi lại cảm thấy không đúng, minh khí đáng tiền như vậy, Tuyền Béo có thể sơ xuất được sao? Huống chi hắn căn bản cũng không buông tay, không thể nói là nhặt nhầm được.
Răng Vàng bảo: “Lão béo, tôi biết!!!!”
Tuyền Béo nói: “Mẹ kiếp! có cái rắm gì thì mau phun ra!”
Răng Vàng nói: “Chắc chắn là đã bị quỷ mang đi âm phủ rồi!”
Tuyền Béo nói: “Anh thì biết cái rắm gì! Mẹ nó ăn cơm người mà không chịu nói tiếng người!”
Răng Vàng nói: “Không tin thì anh thử nhìn lão bánh chưng xem, áo liệm, minh khí đều giống như bị phủ một tầng đất rồi, phủi không hết, thật ra thì không phải bị bụi đất che phủ, nói trắng ra thì là có hình mà không chất!”
Tôi nói: “Không đúng, nếu như có hình không chất thì anh sẽ không thể sờ được vào minh khí. Đằng này không chỉ Phật trân châu mà toàn bộ minh khí xung quanh vẫn chạm vào được nhưng tựa hồ đã mất đi cái gì đó, có điều tôi nhất thời chưa tưởng tượng ra là cái gì.”
Tuyền Béo vỗ đầu một cái: “Nếu nói là mất đi cái gì thì chính là mất đi hào quang vậy!”
Hết thảy những thứ chung quanh này giống như đã già đi một lớp bụi trần, cả trường minh đăng trên am rồng cũng vậy. Ánh sáng đèn pin càng lúc càng mờ, tôi đưa tay chạm thử một cái, trường minh đăng trên am rồng mặc dù không tắt nhưng đèn đuốc lạnh như băng, có thể thấy Tuyền Béo nói cũng không đúng.
Răng Vàng cả kinh nói: “Chết!”
Tuyền Béo hỏi hắn: “Chết? Chết mà anh còn mở miệng được à?”
Răng Vàng nói: “Tôi ném gạch dẫn ngọc *, như vậy mà hai người vẫn không hiểu gì sao?”

* Ném gạch dẫn ngọc: Gợi ý vấn đề để lôi cuốn mọi người vào cuộc tranh luận. Dựa theo tích Thường Kiến rất hâm mộ thơ Triệu Hổ, biết Triệu sắp đến vãn cảnh chùa Linh Nham, Thường bèn đến trước đề hai câu thơ. Hôm sau, Triệu đến, thấy bài thơ dở dang, liền đề thêm hai câu nữa, thành một bài thơ tứ tuyệt rất hay.

Tôi ngẩn người, ý tứ của Răng Vàng rất đơn giản, người chết với người sống khác nhau chỗ nào? Người sống so với người chết – hơn nhau một hơi thở, một giọng nói. Nếu như không có giọng nói, không nghe được thì gọi là người chết, không thể nghe nói thì chỉ là một đống thịt. Người phân sống chết, đồ vật cũng chia sống chết, bảo đài, quan quách, minh khí, đèn đuốc, thi thể, tất cả mọi thứ mất đi ánh sáng cùng sắc thái, tất cả như nặn từ bùn đất, không phải là mất cái gì, mà hết thảy – đều là chết hết!
Tuyền Béo nói: “Ném gạch dẫn ngọc cái con khỉ? Thắp hương gọi quỷ thì có!” Trên mặt hắn bị cái móng lừa đen ném trúng lỗ mũi vẫn còn đang rỉ máu nhưng dường như vẫn chưa hiểu ra, vừa hùng hùng hổ hổ, vừa thả Phật chân trâu xuống, máu nhỏ xuống tay tôi.
Tôi nâng mu bàn tay lên, không nhìn ra màu sắc, dùng đầu lưỡi liếm một cái, lại không thấy giống máu, máu gà ngọt, máu chó tanh, máu người mặn, máu Tuyền Béo không có bất cứ mùi vị gì. Tôi chột dạ, vội lấy đèn pin rọi qua, ánh sáng ảm đạm vừa chiếu một cái, chỉ thấy gương mặt Tuyền Béo đã giống như tro tàn, cúi đầu nhìn Răng Vàng giống hệt như thế, cũng giống hệt bánh chưng!
Răng Vàng nói: “Hồ gia! Chúng ta thành ngọn đèn hết dầu rồi (ý là đã chết)!

Tôi nói: “Anh còn chưa chết bao giờ, sao biết chết là thế?”
Răng Vàng nói: “Mặt người sống không giống vậy, đây chẳng phải là bánh chưng trong quan tài sao?”
Tuyền Béo nói: “Lão Hồ, mặt mũi anh thế này sắp thành bánh chưng rồi!”
Tôi nói: “Không cần để ý tôi, anh cũng thế!”
Tuyền Béo nói: “Tôi làm sao lại như thế được?”
Răng Vàng nói: “Tôi nói hai người còn không tin, ác quỷ đã hút hết sức sống trong huyền cung này rồi!!”
Tuyền Béo nói: “Mẹ kiếp, mồm anh thôí vừa thôi, há miệng ra là quỷ?”
Răng Vàng nói: “Anh không thấy sao? Lão bánh chưng khạc ra một miệng oán khí, đấy không phải là ác quỷ bao vây huyền cung à?”
Tôi nói: “Thứ lão bánh chưng phun ra là ma trơi, cũng chỉ lập lòe sáng rồi tắt, mê tín mà nói thì là đèn lồng của Diêm Vương, thật ra là lửa nấp trong mộ thôi.” Lẽ ra trước đây tôi không nên nói cái gì mà ngũ quỷ quấn thi, khiến cho Răng Vàng nghĩ ngợi lung tung, nhưng hắn cũng nói trúng một chút, từ lúc chúng tôi bị Mã Lão Oa Tử chôn sống, lạc vào huyền cung chín tầng, mở quan quách, phía trên đỉnh cao là năm móng rồng vàng, nhưng sau khi mở quan quách, trong điện tràn ngập sương khói mịt mù, ánh sáng càng lúc càng mờ, cho dù đốt trường minh đăng cũng không thấy được rồng vàng ngậm châu trên nóc điện. Tôi ngồi dậy, đứng lên trên bảo đài, mở đèn pin rọi một cái, rồng vàng năm móng trên đầu há miệng kỳ quái, giống như một cái lỗ lớn âm u đáng sợ, dương khí đều bị nó hút vào!