Chương 2

Lời Nguyền Lâu Lan

Đăng vào: 11 tháng trước

.

1

Khi Diệp Tiêu trong bộ đồng phục cảnh sát đang cố nhấc đầu ra khỏi khuỷu tay, giương đôi mắt ngái ngủ lên nhìn thì phát hiện thấy mọi người trong phòng làm việc đang nhìn anh bằng ánh mắt kỳ lạ. Đôi mắt anh vẫn như đang muốn cụp xuống. Anh thấy hơi ngường ngượng. Lúc nãy anh lại vừa làm một giấc.

Cô bạn đồng nghiệp bàn bên cạnh nói nhỏ:

– Diệp Tiêu, đêm qua anh lại mất ngủ vì cái vụ án kỳ quặc kia chứ gì, về nhà nghỉ ngơi đi.

Đến lúc này Diệp Tiêu mới mơ hồ nghĩ đến một cái gì đó. Anh lắc chiếc đầu nặng nề. Chuông điện thoại vang, anh nhấc máy. Nghe xong, anh nhìn ra ngoài cửa sổ, ánh nắng chói chang bên ngoài chiếu thẳng vào mắt anh.

Sau đó anh vội vàng đứng dậy đi ra cửa.

Cô bạn đồng nghiệp ngạc nhiên hỏi:

– Anh đi đâu đấy?

– Phòng khám nghiệm tử thi! – Diệp Tiêu trả lời.

2

Nửa tiếng sau, tiếng bước chân vội vã của Diệp Tiêu đã vang lên trong phòng khám nghiệm tai nạn của cảnh sát giao thông. Trong hành lang dài, một khoảng tối mờ. Trong nhà xác cạnh hành lang còn để rất nhiều xác người mặt mũi biến dạng vì bị tai nạn giao thông. Phần lớn trông đều rất thê thảm. Có nhiều người đầu một nơi chân tay một nẻo. Có lúc Diệp Tiêu cảm giác bốn bánh xe lao vun vút cũng nguy hiểm không kém một kẻ sát nhân tàn nhẫn.

Diệp Tiêu thay quần áo, bước vào phòng khám nghiệm, nhìn thấy xác một thanh niên đang nằm trên bàn phẫu thuật.

Hứa An Đa.

Hứa An Đa đã bị cởi bỏ hết quần áo, toàn thân ở trần. Anh ta lúc đó trắng như một cục tuyết, anh ta ca khoảng 1m70, trông rất cơ bắp, xem ra là người chịu khó luyện tập, hoặc do công việc thường phải đi dã ngoại. Gương mặt đã biến dạng hết, toàn máu và não.

– Nguyên nhân xảy ra tai nạn là thế nào? – Diệp Tiêu hỏi nhỏ người cảnh sát giao thông được giao thụ lý vụ tai nạn này.

– Có lẽ là do chạy xe sau khi uống rượu, vào lúc 11 giờ đêm, đầu không đội mũ bảo hiểm, đi một chiếc xe nội địa đời cũ, chạy như bay trên con đường nhỏ ven sông Tô Châu. Bởi vì chỗ này sông Tô Châu uốn khúc, anh ta không kịp xác định phương hướng, lao thẳng vào bờ đê phòng hộ, thân thể bị tung lên, đầu đập xuống mặt đường, chết ngay tại chỗ. – Người cảnh sát thuật lại quá trình xảy ra sự việc với giọng rất khách quan.

– Lúc đó bên cạnh không có xe cộ hay người đi đường nào à?

– Không có, con đường nhỏ cạnh sông Tô Châu bình thường vào ban đêm rất ít xe. Chỉ có một người báo án, anh ta nói rằng đang đi dạo ở bên ngoài thì phát hiện trước khi chết nạn nhân còn nằm trên xe mô tô dựng cạnh đường. Người báo án nói, nạn nhân khi ấy đột nhiên ngồi dậy, thái độ rất lạ, miệng đầy hơi rượu, mồm thì kêu: “Cứu tôi với!”

Khi đó người báo án cho rằng anh ta bị bệnh tim, thế là anh ấy gọi điện thoại cho cấp cứu 120. Đúng lúc đó, nạn nhân đột nhiên nổ máy phóng vụt đi. Sau khi chạy khoảng 100 mét tông thẳng vào đê phòng hộ.

– Cứu tôi với?

Diệp Tiêu bặm môi suy nghĩ rồi khẽ hỏi:

– Nạn nhân trước khi chết có tiền sử bệnh tim không?

– Tôi không biết. Cái này phải đợi kết quả khám nghiệm tử thi và điều tra xác minh bệnh án của anh ta.

– Thế quan điểm của anh thì sao?

Người cảnh sát giao thông tự tin trả lời:

– Đây chỉ đơn giản là một tai nạn giao thông, lái xe sau khi uống rượu say. Những lời kêu cứu của nạn nhân trước khi chết có thể là vì uống quá nhiều rượu dẫn đến sự khó chịu bên trong cơ thể. Đương nhiên còn bao gồm cả bệnh tim. Những chuyện về uống quá nhiều rượu dẫn đến những bệnh liên quan đến tim nhiều vô kể. Chờ một chút kiểm tra nồng độ cồn trong máu của anh ta là chúng ta sẽ biết ngay thôi. Những tai nạn kiểu này chúng tôi đã giải quyết rất nhiều. Anh cũng biết rồi đấy, có một số người không thể từ bỏ được sự mê hoặc của rượu, kết quả là tự mình hại chết mình. Cậu này còn là may mắn đấy, không hại chết người khác. Thế cũng là tích đức cho đời lắm rồi! Này anh bạn, anh có uống rượu không? – Anh ta bỗng nhiên vỗ vai Diệp Tiêu hỏi.

– Hả, anh hỏi tôi à? Tôi không uống rượu bao giờ. – Diệp Tiêu trả lời có chút bối rối.

– Thế thì tốt, rượu ấy mà, nó có thể giết chết người đấy. Mấy thằng cha không hiểu đạo lý này, cuối cùng cũng tự gánh lấy hậu quả. Này, liệu có cần thiết phải mổ khám nghiệm xác nạn nhân này không? – Anh ta nhìn Diệp Tiêu bằng ánh mắt hoài nghi.

Diệp Tiêu cảm thấy bây giờ không thể nhượng bộ được nữa rồi. Anh nói một cách quả quyết:

– Có chứ, nhất định phải mổ!

Người cảnh sát gật đầu, rồi thong thả nói:

– Thế thì bắt đầu thôi!

Trước hết là kiểm tra máu, kiểm tra nồng độ cồn trong máu. Kết quả cho thấy nồng độ cồn cao quá mức cho phép. Sau đó, người cán bộ pháp y cầm dao mổ. Tay anh thành thạo xẻ một đường ở cổ, rồi kéo một đường thẳng dần xuống đến phía dưới bụng. Diệp Tiêu nhìn thấy cơ thể Hứa An Đa trên bàn phẫu thuật bị rạch một đường dài ở giữa bụng giống như chiếc phéc-mơ-tuya của chiếc áo jacket trắng vừa được kéo xuống.

Sau đó, xương sườn của Hứa An Đa bị kéo chuyên dụng cắt đứt rồi gắp ra. Tiếp đó là đến phổi, được đặt vào một chiếc đĩa, giống như anh đầu bếp vừa múc thức ăn mới nấu xong vào đĩa để chuẩn bị mang lên cho thực khách. Nhưng phổi của anh ta màu rất thâm. Diệp Tiêu khi học ở trường Đại học Công an đã học qua môn phẫu thuật, không những thế, kết quả thi môn này của anh rất khá. Vì thế anh có thể phán đoán rằng Hứa An Đa khi còn sống là một người nghiện thuốc ham rượu. Tuy tuổi còn trẻ nhưng phổi đã bị lão hóa.

Sau đó là đến tim, bên trên phủ một lớp màng mỏng. Nhưng quả tim này lại hoàn toàn trái ngược với lá phổi. Nó rất khoẻ mạnh. Không thấy có biểu hiện gì của bệnh tim, cũng không có khả năng bị tắc động mạch. Nói tóm lại có thể khẳng định rằng, tim của anh ta không hề liên quan đến cái chết của anh ta. Tiếp đến là gan, lá lách, ruột, và thức ăn còn lưu trong dạ dày. Nhưng đều không phát hiện thấy có gì bất thường.

Mặc dù tất cả đều bình thường, nhưng nhịp tim của Diệp Tiêu lại đột nhiên tăng lên. Anh bỗng thấy chóng mặt. Trước đây khi học môn phẫu thuật, Diệp Tiêu cũng đã trực tiếp cầm dao phẫu thuật tử thi, nhưng anh chưa từng bị như thế này bao giờ. Ngoại trừ tuần trước, khi mổ khám nghiệm cho một nạn nhân ở Viện Nghiên cứu Khảo cổ có tên là Giang Hà, anh cũng bỗng nhiên có cảm giác kì lạ này. Anh điều chỉnh lại nhịp thở để giữ cho nhịp tim trở lại bình thường và gắng hết sức để giữ bình tĩnh, tránh không để cho người khác nhận thấy.

Mặc dù não Hứa An Đa đã nát bét nhưng theo thứ tự của ca phẫu thuật, cho dù thế nào đi chăng nữa phần não cũng vẫn phải mổ. Cán bộ pháp y hình như cũng chẳng hề ngại ngần gì. Con dao mổ trong tay anh ta vẫn rạch ngọt một đường vào cái đám lùng nhùng máu tươi và não đó. Bắt đầu từ đằng sau não, bóc bỏ những miếng da đầu còn dính lại, giữa đống não còn tươi lộ ra một lớp màu trắng.

Não đã bị đập hỏng hoàn toàn, dường như dịch não tủy đã bị chảy đến quá nửa. Cán bộ pháp y lấy ra phần não màu trắng còn sót lại, bên trên phủ vô số những nếp nhăn, nhưng có thể khẳng định, não đã bị biến dạng.

Diệp Tiểu hiểu rằng như vậy là không thể điều tra ra điều gì hết. Não đã bị biến thành thế này, cho dù có đầu mối quan trọng thì cũng không thể giữ lại được. Huống hồ não vốn là bộ phận phức tạp nhất trong cơ thể. Cho đến nay kết quả nghiên cứu não bộ vẫn còn rất hạn chế, nhiều vấn đề vẫn đang được nghiên cứu, có điều đó là việc của các nhà khoa học. Còn bây giờ, trong cái phòng khám nghiệm tai nạn giao thông này, anh đã không còn hy vọng có thể phát hiện ra manh mối gì, song trực giác như mách bảo Diệp Tiêu, nhất định vẫn còn một vấn đề nào đó ẩn giấu đang chờ anh khám phá. Có lẽ đó là một bí mật vô cùng quan trọng. Nhưng anh đã hoàn toàn bất lực.

Cán bộ pháp y cũng lắc đầu. Trên thực tế, một bộ não bị tàn phế thế này, nếu có gì khác thường cũng không thể xác định được. Anh ta chỉ có thể viết vào biên bản khám nghiệm dòng chữ “Kết quả khám nghiệm: bình thường.”

Công việc phẫu thuật tử thi đến đây kết thúc. Thân thể rách nát của Hứa An Đa được khâu kín lại như cũ, sau đó được đưa vào nhà lạnh. Có lẽ vài ngày nữa, anh ta sẽ biến thành một nắm tro. Những người khác thu dọn dụng cụ, dọn dẹp căn phòng hoặc ghi biên bản. Diệp Tiêu và người cảnh sát giao thông từ từ bước ra khỏi phòng, quay lại cái hành lanh tối om.

Bỗng nhiên một cánh tay vỗ mạnh vào vai Diệp Tiêu, anh gần như nhảy dựng lên. Nhịp tim mà anh vừa cố gắng lắm mới điều chỉnh được lại đập nhanh như lúc anh ở trong phòng mổ. Hoá ra là anh cảnh sát giao thông đi cùng. Anh ta nhìn Diệp Tiêu bằng một ánh mắt lạ lùng, nói:

– Vừa nãy lúc mổ tử thi, ánh mắt và sắc mặt của cậu có điều gì đó không bình thường. Cậu sợ à?

– Không, tôi có học qua phẫu thuật mà, có gì sợ đâu. – Diệp Tiêu cố phân bua, anh cần phải giữ được vẻ tự tin.

Người cảnh sát rõ ràng là không thỏa mãn với câu trả lời của Diệp Tiêu, nhưng anh ta chỉ cười xuề xòa rồi nói:

– Này, kết quả cho thấy ngoài việc lượng cồn trong máu quá cao ra thì mọi vấn đề khác đều bình thường. Anh thấy sao?

– Tôi không biết! – Diệp Tiêu trả lời.

– Tôi đoán chắc nạn nhân là một nghi vấn trong một vụ án giết người nào đó đúng không? Hoặc là một nhân chứng quan trọng chẳng hạn?

Diệp Tiêu lắc đầu:

– Không có gì đâu, tôi chỉ nghi ngờ anh ta có liên quan đến một vụ án mạng khác mà thôi.

Lúc này có một chiếc xe đẩy chở xác tiến đến. Hành lang lại vang lên những tiếng bước chân nặng nề. Diệp Tiêu vội vã rời khỏi đây.

3

Bước qua cánh cổng lớn. Bên ngoài nắng chói chang nhưng nó khiến cho tâm trạng của Diệp Tiêu vợi hẳn đi. Anh thong thả hít thở mấy hơi, tưởng như vừa được trở về với dương gian. Anh lái một chiếc Satana màu trắng của Sở Công an chạy lên đường cao tốc.

Dòng xe cuồn cuộn, phía trước là một khúc cua ngoặt, đánh vô lăng một cái, đường lại thẳng trở lại. Diệp Tiêu bỗng nhớ lại khúc cua trên bờ sông Tô Châu tối hôm qua. Có lẽ, Hứa An Đa đã bị đâm trong một tình huống giống như thế này. Anh có thể hình dung ra hình ảnh Hứa An Đa đầu không đội mũ bảo hiểm lao như điên trên bờ sông Tô Châu trong đêm tối. Gió thổi tung mái tóc của anh ta. Trong đêm, mắt anh ta phát ra những tia kỳ lạ. Sau đó anh ta bật mạnh lên khỏi yên xe, rồi lại từ từ rơi xuống đất. Từ một lái xe đến một cái xác chỉ trong tích tắc. Bây giờ, Hứa An Đa đã nằm trong nhà lạnh rồi. Có thật là cần phải mổ xác anh ta không? Có lẽ chỉ là tai nạn do uống quá nhiều rượu. Những tai nạn kiểu này, ở thành phố này hầu như tuần nào chẳng xảy ra. Bỗng nhiên, trong đầu Diệp Tiêu lại hiện lên hình ảnh Giang Hà nằm trên bàn giải phẫu. Một tiếng rít chói tai vang lên, mồ hôi đổ ra lạnh toát sống lưng. Đó là tiếng phanh xe, suýt nữa thì anh đã đâm vào xe phía trước. Lái xe phía trước thò đầu ra đang định cáu với Diệp Tiêu, nhưng nhìn thấy xe của Sở Công an lại thụt đầu vào.

Diệp Tiêu lắc đầu, lái xe ra khỏi đường cao tốc, tấp xe vào ven một con đường nhỏ, tắt máy, đầu gục xuống vô lăng, từ từ nhắm mắt lại. Anh chẳng nhìn thấy gì nữa, chẳng nghe thấy gì nữa, chầm chậm chìm vào cơn sóng cuồn cuộn trong đêm tối.

Không biết là sau bao nhiêu lâu, có lẽ phải đến một thế kỷ. Trong bóng đêm, anh nhìn thấy một tia sáng, giống như một khe hở nhỏ trong hầm tối, tia sáng mảnh như một lưỡi dao, rạch đôi không gian hỗn độn. Trong không gian ấy, anh nhìn thấy cửa lớn của kho lạnh ở Sở Công an mở ra. Một bóng người xuất hiện ở hành lang trước cửa kho. Người đó đi về phía anh. Cuối cùng, khuôn mặt của anh ta xuất hiện trong tia sáng. Anh nhìn rõ khuôn mặt đó, đó là khuôn mặt của chính anh. Anh ta trông rất ung dung và bình tĩnh. Anh ta cười với anh, chìa tay ra, đặt lên vai anh. Sau đó anh ta lại chìa nốt tay kia ra, hình như muốn đưa vật gì cho anh. Diệp Tiêu sợ không dám đưa tay ra nhận, anh kêu lên một tiếng thật to, tiếp đó, anh nghe thấy tiếng còi xe ô tô vang lên.

Anh vội ngẩng đầu dậy, nhìn về phía trước, thấy mình đang ngồi trong xe ô tô, hoá ra vừa nãy đầu anh đè lên núm còi trên vô lăng. Một giấc mơ, chỉ là một giấc mơ mà thôi. Mà sao anh lại có thể ngủ quên trên vô lăng được nhỉ? Chắc có lẽ là do anh đã quá mệt. Anh thở gấp, nhìn ra bên ngoài. Trời đã tối, hôm nay anh phải mang xe về Sở.

Vừa nãy rõ ràng là mình đã hét lên. Vì sao lại mơ đến anh ta? Bây giờ anh ta đã là một đống tro tàn rồi. Có lẽ mấy ngày gần đây, những lời nói to trong mơ lúc anh ngủ gật ở phòng làm việc cũng có liên quan đến việc này. Diệp Tiêu không kịp nghĩ thêm nữa, anh khởi động xe đi về Sở Công an.

4

Lúc anh về đến Sở Công an, mọi người đã về hết cả. Phòng làm việc trống không, im lặng đến lạ kỳ. Diệp Tiêu thấy khát, anh uống một cốc nước rồi ngồi vào bàn vi tính. Anh mở hồ sơ vụ án mạng của Giang Hà trong máy. Trên góc trái màn hình hiện lên tấm ảnh của Giang Hà. Nhìn khuôn mặt của Giang Hà, anh bỗng nhiên cảm thấy hình như khuôn mặt ấy sắp thò ra khỏi màn hình.

Diệp Tiêu nhắm mắt lại. Anh nhớ đến khung cảnh lần đầu tiên nhìn thấy khuôn mặt của Giang Hà. Đó là lúc vụ án mạng đầu tiên được chuyển từ Trung tâm tin tức đến phòng Trinh sát hình sự này. Hôm đó trời rất đẹp, ánh nắng chan hoà, còn trong cái hành lang dài ấy, lại đặc biệt tối và lạnh. Anh nhẹ nhàng đẩy cánh cửa phòng giải phẫu tử thi và nhìn thấy một nam thanh niên còn trẻ nằm trên bàn phẫu thuật. Cán bộ pháp y đang bắt đầu những đường mổ đầu tiên. Diệp Tiêu không dám làm kinh động người khác, lặng lẽ đi đến cạnh bàn giải phẫu, lúc ấy anh mới nhìn rõ khuôn mặt của Giang Hà.

Diệp Tiêu nhớ mãi cái khoảnh khắc ấy. Người thanh niên mà anh nhìn thấy trên bàn giải phẫu đó, chính là anh. Khi anh phát hiện mình đang trần truồng nằm trên bàn phẫu thuật, thân thể bị rạch một đường thẳng băng, lục phủ ngũ tạng của mình đều hiện ra trước mắt. Cái cảm giác ấy chưa ai từng trải qua – nhìn thấy xác mình bị mổ xẻ. Trong khoảnh khắc đó, toàn thân Diệp Tiêu lạnh toát, giống hệt như người chết đang nằm trên bàn giải phẫu kia. Anh đứng bất động nhìn mình nằm trên bàn giải phẫu, nhìn tim mình đang bị cán bộ pháp y lấy ra đặt trên khay nhôm trắng. Vào giây phút đó, anh cảm thấy trái tim mình bỗng đau nhói. Diệp Tiêu tự nói với mình: “Họ đang mưu sát, họ đang giết mình, không, mình đã bị họ giết chết, mình đã chết rồi!” Thế là anh hét lên với cán bộ pháp y:

– Dừng tay!

Cả căn phòng vang vọng tiếng kêu của anh, rồi sau đó lại trở lại với sự im lặng chết chóc vốn có.

Người cán bộ pháp y đứng ngây ra, ngẩng đầu nhìn Diệp Tiêu, ánh mắt lộ vẻ khinh miệt. Rồi anh ta lại nhìn vào bộ mặt của người thanh niên đang nằm trên bàn giải phẫu. Người cán bộ pháp y hơi ngớ ra, rồi lại ngẩng đầu lên nhìn Diệp Tiêu. Cuối cùng, một nụ cười thoáng qua trên môi anh ta. Anh ta gật đầu nói với Diệp Tiêu:

– Ồ, giống thật. Tôi nói là anh rất giống với người đã chết.

Nói xong, anh ta cúi người xuống, tiếp tục công việc của mình.

Diệp Tiêu cuối cùng cũng thở phào, hoá ra người chết nằm trên bàn giải phẫu kia không phải là anh, chỉ là người rất giống anh mà thôi. Anh lại nhìn vào khuôn mặt của người kia, những đường nét của cằm, gò má, rồi bả vai, sống mũi… tất tật đều rất giống. Nhưng, họ chưa đến mức giống nhau như hai anh em sinh đôi. Thoáng nhìn thì thấy hơi nghi hoặc, nhưng nhìn kỹ thì sẽ thấy không giống nhau đến thế. Tóm lại là vẫn có thể dễ dàng phân biệt được hai người với nhau. Hơn nữa, còn có một thứ anh chưa nhìn thấy. Đó là đôi mắt của người chết.

Mấy phút sau đó, Diệp Tiêu cứ cảm thấy mình hình như bị ngâm trong dung dịch phoóc môn, thành một tiêu bản cơ thể người sau khi mổ, cho đến khi thi thể của người thanh niên trên bàn giải phẫu được khâu lại, rồi đẩy vào nhà lạnh mới thôi. Sau khi bước ra khỏi nhà xác, Diệp Tiêu mới hỏi kỹ tên của người chết. Từ đó anh vĩnh viễn ghi nhớ cái tên đó – Giang Hà.

Diệp Tiêu cuối cùng đã trở về lại với thực tại, xem kĩ lại hết toàn bộ những tài liệu về người chết đang hiện trên màn hình.

Bỗng cửa bật mở, Diệp Tiêu giật nảy mình, quay đầu lại nhìn, mới phát hiện hoá ra là Phương Tân, một cán bộ pháp y trẻ mới được điều về Sở Công an làm việc. Phương Tân tuổi tác cũng trạc tuổi Diệp Tiêu, mắt đeo kính, trông rất thư sinh, mình khoác một chiếc áo choàng màu trắng.

Diệp Tiêu thở hắt ra, nói:

– Phương Tân, là cậu à, làm tớ giật cả mình!

– Thế cậu nghĩ là ai? Mấy ngày nay tinh thần cậu có vẻ không ổn định thế nào ấy? Tôi vừa đi qua dưới nhà, nhìn thấy phòng làm việc của các cậu vẫn sáng đèn, tôi đoán chắc cậu vẫn đang ngồi điên cuồng làm việc ở đây.

Diệp Tiêu cuối cùng cũng đã có thể cười.

– Thế còn cậu, sao vẫn chưa về? – Anh hỏi

– Chả phải vì cái nhiệm vụ mà cậu giao cho tớ đó sao.

– Đã tìm ra nguyên nhân cái chết thật sự của Giang Hà chưa?

Phương Tân nhìn qua báo cáo nói:

– Trong báo cáo khám nghiệm viết rõ nguyên nhân cái chết là do tim bị tê liệt, nói một cách rõ hơn: Là vì động mạch chủ bị tắc nghẽn dẫn đến tim bị ngừng đập đột ngột. Đây là nguyên nhân tử vong trực tiếp, nhưng Giang Hà và họ hàng anh ta đều không có tiền sử bệnh tim. Hôm qua, tớ đã đi xác minh lịch sử bệnh án của họ cũng không phát hiện thấy có bệnh gì liên quan đến tim. Bản thân sức khoẻ anh ta từ trước đến giờ đều rất tốt. Kết quả khám nghiệm đã chứng minh điều đó.

– Tất cả những điều đó, tớ đều hiểu. Vấn đề quan trọng bây giờ là Giang Hà vì sao vô cớ bị liệt tim mà chết?

Phương Tân dừng lại một lúc rồi mới nói:

– Diệp Tiêu, có lẽ khi giải phẫu Giang Hà chúng ta đã bỏ qua một cái gì đó.

– Bỏ qua cái gì?

– Hệ thống thần kinh của anh ta, tớ nghi ngờ có khả năng nguyên nhân từ hệ thống thần kinh dẫn đến liệt tim.

– Anh ta có bệnh về thần kinh sao?

Phương Tân lắc đầu:

– Không, ý tớ là hệ thống thần kinh có thể nhiễm một loại vi rút nào đó.

– Thế sao lúc xét nghiệm máu không phát hiện ra?

– Vi rút là một loại sinh vật kỳ lạ, nó tồn tại dưới dạng bán sinh vật và bán phi sinh vật. Bản thân nó không có khả năng tự sinh sôi, nảy nở nhưng khi xâm nhập vào tế bào của sinh vật khác, nó sẽ lợi dụng tế bào của sinh vật đó để phát triển. Sự tồn tại của vi rút đầu tiên là dựa vào vật chủ, nếu như vật chủ chết đi thì vi rút cũng hết chỗ dựa dẫm. Có loại vi rút có thể tồn tại lâu dài trên xác của người chết. Nhưng có loại vi rút sau khi vật chủ chết đi nó cũng mất luôn, không lưu lại một vết tích gì. Nếu sau khi chết mới khám nghiệm thì rất khó xác định.

Diệp Tiêu cau mày suy nghĩ một lúc:

– Thế rốt cuộc là có hay không có vi rút trong hệ thống thần kinh làm tê liệt tim của Giang Hà?

– Lúc này tớ chỉ là đang phán đoán, trước khi có những chứng cứ cụ thể tớ sẽ không đưa ra kết luận gì. Nhưng tớ sẽ không chịu buông xuôi đâu. Tớ còn lưu được mẫu máu và những lát cắt tế bào của Giang Hà. Tớ sẽ đi gặp thầy hướng dẫn. Thầy chắc sẽ giúp được điều gì đó.

Diệp Tiêu gật đầu.

– Thôi tớ về trước đây!

Phương Tân đi về phía cửa, bỗng anh quay đầu lại nói:

– Diệp Tiêu, nghỉ sớm đi. Tớ biết vì khuôn mặt của người chết giống cậu, cho nên cậu phải chịu một áp lực tâm lý rất lớn, đúng không? Đừng lo, tớ sẽ cố gắng làm rõ nguyên nhân cái chết của Giang Hà.

Diệp Tiêu cuối cùng cũng nhoẻn miệng cười, nói:

– Cảm ơn cậu!

Trong phòng chỉ còn lại một mình Diệp Tiêu, anh đứng lên, nhìn ra trời đêm ngoài cửa sổ. Một khuôn mặt hiện trên mặt kính cửa sổ. Đó là một khuôn mặt trắng bệch và đáng sợ.

Khuôn mặt đó là ai? Là Diệp Tiêu hay Giang Hà?

5

Trên tường treo một bức tranh, cảnh trong bức tranh là một hoang mạc, rải đầy đá dăm và cát sỏi, đất cằn cỗi và một mặt trời lạnh lẽo.

Bạch Bích nhìn chằm chằm vào bức tranh. Đây là bức tranh cô vẽ và đã được treo ở trên bức tường này đã khá lâu.

Tiếng chuông cửa bỗng vang lên khiến cô giật mình. Cô lắc mạnh người, xoa xoa ngực, thở một hơi dài rồi mới từ từ đi ra mở cửa.

Thì ra là Tiêu Sắt. Cô ấy mặc váy ngắn bó sát người, tay cầm một bó hoa trắng to, bước nhanh vào nhà.

– Bạch Bích, cậu vẫn ổn chứ?

Giọng Tiêu Sắt rất hay, cứ như giọng của ca sĩ.

Bạch Bích gật đầu, đón lấy bó hoa trắng từ tay Tiêu Sắt, nhẹ nhàng nói:

– Cảm ơn cậu!

Cô rót cho Tiêu Sắt một cốc nước. Tiêu Sắt đã quá quen với nơi này. Cô cầm lấy cốc nước, mỉm cười nói:

– Bạch Bích, đừng khách sáo thế chứ. Hôm qua thật có lỗi quá, tớ đã không đến dự lễ tang của Giang Hà được.

– Thôi mà, không sao đâu, tớ không thích buổi tang lễ hôm qua.

Giọng Bạch Bích có vẻ mệt mỏi, ngoài Giang Hà ra, chỉ khi nói chuyện với Tiêu Sắt, cô mới không cảm thấy căng thẳng và áp lực, mới tự nhiên bộc lộ suy nghĩ thật của mình.

– Sự việc của Giang Hà, tóm lại là đã xảy ra như thế nào? Đột ngột quá, tớ thật không thể ngờ lại xảy ra sự việc này.

Khi nói, mắt của Tiêu Sắt sáng nhấp nhánh. Cô luôn trang điểm mắt để làm nổi bật chúng. Nhưng từ ánh mắt đó để lộ ra một điều gì đó làm cho Bạch Bích cảm thấy có chút kỳ lạ.

– Tớ cũng chẳng biết. Nguyên nhân chết không rõ ràng, có lẽ là do tai nạn. Có thể trong người anh ấy có cái gì đó bất ngờ phát tác. Anh ấy làm việc ở Viện Nghiên cứu đến đêm khuya, hình như có gọi cho tớ một cuộc điện thoại, nhưng không nói gì. Tớ gọi lại cho anh ấy nhưng không thấy nghe máy, có thể sự việc xảy ra vào lúc ấy. Sáng hôm sau, đã phát hiện xác anh ấy ở Viện Nghiên cứu, tớ chỉ biết có vậy thôi.

Tiêu Sắt gật đầu nghe hết lời của Bạch Bích, cô thở dài nói:

– Thật là kỳ lạ, có lẽ có thể viết thành một cuốn tiểu thuyết rồi ấy chứ, à không, viết thành một kịch bản, để tớ phân vai cho cậu nhá.

– Thôi đừng có đùa nữa mà!

Tiêu Sắt nghiêm mặt lắc đầu:

– Tớ nói thật đấy. Mấy hôm nay tớ cứ nghĩ, Giang Hà, con người này tuy có quê mùa một chút, nhưng thực ra anh ấy là người rất có sức hấp dẫn, cậu biết không? Có lúc, tớ cũng hơi thích anh ấy, bởi vì, anh ấy rất đàn ông. Tớ thích những người đàn ông như vậy. Đàn ông bây giờ chả mấy ai được thế. Những người mà cố dán vào mình chút lông mao trên ngực để cho mình có tí chất đàn ông thực ra là những kẻ ngu ngốc nhất.

Bạch Bích nghe Tiêu Sắt nói, như dần hiểu ra điều gì đó, rồi cô mỉm cười gật đầu nói:

– Bây giờ, tất cả đều kết thúc rồi, đừng nhắc đến những chuyện đó nữa.

– Được rồi, cậu sẽ sớm quên đi tất cả thôi.

Tiêu Sắt nắn bả vai Bạch Bích. Cô cảm thấy như thế là đủ rồi, bả vai Bạch Bích mềm mại, cả người cô cứ như đang mềm oặt ra, và khẽ run lên.

Phải khó khăn lắm Bạch Bích mới ngẩng được đầu lên, cười hỏi:

– Thôi nói chuyện khác đi, lần trước cậu nói đã tham gia một đoàn kịch, đang chuẩn bị tập vở mới à?

– Ừ, cậu đã nghe nói đến một nhà văn trẻ tên là La Chu bao giờ chưa? – Tiêu Sắt hỏi.

Bạch Bích lắc đầu.

– Ôi, anh ấy bây giờ chưa có tiếng tăm mấy, có lẽ là bởi vì những thứ anh ấy viết mọi người xem không hiểu, những người xem hiểu lại nói anh ấy là tầm thường. Hiện nay anh ấy đảm nhận viết kịch bản kiêm đạo diễn cho đoàn kịch của tớ. Chúng tớ đang tập một vở mới có tên là “Đoạn hồn Lâu Lan”.

– Đoạn hồn Lâu Lan? – Bạch Bích có vẻ không thích cái tên này.

– Sao thế?

– Không có gì, tớ cũng chẳng biết vì sao nghe thấy cái tên này lại thấy hơi khó chịu.

Tiêu Sắt an ủi:

– Có khi cậu lại bị căng thẳng thần kinh rồi. Từ nhỏ thần kinh cậu đã yếu, nói thật, có lúc cậu làm người ta lo lắng lắm. Tớ rất sợ không cẩn thận cậu có thể bị đưa vào bệnh viện tâm thần, thế thì tớ sẽ không được gặp cậu nữa mất.

Nói xong Tiêu Sắt cười vang.

Bạch Bích cũng muốn cười chính mình, nhưng cô cuối cùng vẫn không cười nổi, chỉ là cố gắng nhếch mép lên một chút. Cô thật sự khâm phục Tiêu Sắt, ở bất cứ đâu, vào bất cứ lúc nào cô ấy cũng có thể cười rất vui vẻ, cho dù cũng có lúc không phù hợp cho lắm. Nhưng bỗng nhiên, cô nghĩ đến mẹ. Cô khẽ nói:

– Tiêu Sắt, cậu nói đi, liệu tớ có giống như mẹ tớ không?

– Bạch Bích, cái cậu này lại nghĩ lung tung rồi. Thôi, cho tớ xin lỗi, vừa nãy tớ chỉ là nói đùa thôi. Đừng để ý đến làm gì. Cậu sẽ chẳng làm sao đâu. Mẹ cậu cũng sẽ sớm được về thôi.

Tiêu Sắt đưa tay ra vuốt lên mái tóc của Bạch Bích, rồi từ từ thả cho những ngón tay tuột khỏi mái tóc.

– Không sao đâu, tớ biết tớ là người không may mắn.

– Đừng nói như vậy mà.

– Năm tớ 10 tuổi, bố tớ bị tai nạn vào đúng ngày sinh nhật lần thứ 40, ông chỉ vì muốn đưa tớ đi khám bệnh nên còn chưa kịp thổi nến sinh nhật đã đi rồi. Nếu như không phải vì tớ, chắc chắn ông đã chẳng xảy ra chuyện. Rồi sau đó, mẹ tớ thần kinh không bình thường, toàn nói những lời đáng sợ, cuối cùng cũng phải vào bệnh viện tâm thần, mấy năm rồi còn gì. Còn tớ, trước khi kết hôn một tháng, đã mãi mãi mất đi người chồng chưa cưới, hơn nữa nguyên nhân chết còn không rõ ràng. Nói một cách ngắn gọn là, tớ sống mới chỉ có hơn 20 năm ngắn ngủi thế mà có lẽ ngoài cậu ra, những người thân thiết nhất gần như đều bỏ tớ mà đi. Có lẽ tớ bị nhiễm phải vận xấu rồi. Lại còn…

Bạch Bích thấy sống mũi cay cay, rồi tắc lại, không thể nói tiếp.

Tiêu Sắt thở dài nói:

– Những điều đó tớ đều biết, nhưng cậu đừng sợ, chí ít thì cũng còn có tớ đây.

Bạch Bích bỗng nhìn Tiêu Sắt bằng ánh mắt kỳ lạ, nói:

– Hãy hứa với tớ, cậu phải sống thật tốt. Tớ muốn cậu sống vui vẻ đến trăm tuổi.

Tiêu Sắt nhìn đôi mắt đã đỏ hoe đang mở to của Bạch Bích với vẻ không tự nhiên lắm. Cô cười trả lời:

– Không vấn đề gì, cho dù cậu không cho tớ sống, tớ cũng sẽ cố để sống bằng được. Một trăm tuổi ít quá, phải một trăm lẻ một tuổi ý chứ.

Bạch Bích cuối cùng cũng nhoẻn miệng cười.

Tiêu Sắt đứng lên nhìn ra màn đêm ngoài cửa sổ, nói:

– Bạch Bích, tớ nghĩ là buổi tối cậu nên kéo rèm cửa xuống, không nhỡ có người nhìn trộm.

– Nhìn trộm cái gì cơ? Tớ chẳng có gì để mà nhìn cả. Tớ chỉ thích ngắm trời đêm, phía xa trong màn đêm có những ngọn đèn như những ánh sao, giống như đang nói chuyện với một thế giới khác.

Bạch Bích cũng hướng ánh mắt ra bên ngoài.

– Lại thế rồi, thật chịu không nổi cậu. Thôi, tớ về đây, mau cắm hoa vào lọ đi. Mấy ngày nữa đến đoàn kịch xem chúng tớ tập nhé.

Sau đó, cô ghi lại địa chỉ của đoàn kịch đưa cho Bạch Bích, rồi ra về.

Tiêu Sắt là bạn gái thân nhất của Bạch Bích. Họ là bạn học với nhau từ nhỏ. Hình như họ có duyên với nhau. Cho dù tính cách của hai người khác hẳn nhau. Bạch Bích lúc nhỏ tuy xinh đẹp, nhưng sắc mặt trắng bệch, khi nhìn ai thì cứ nhìn chằm chằm vào mắt người ta, kiểu nhìn như thế khiến người khác e ngại. Cô ít nói, có lúc cả ngày chẳng nói câu nào, có lúc lại nói những câu rất sợ, tóm lại dáng vẻ rất thần bí. Do hoàn cảnh đặc biệt, mất bố từ khi còn nhỏ, nhiều người cho rằng cô rất đen đủi, cao số, rất nhiều đứa trẻ không dám lại gần cô. Chỉ có Tiêu Sắt là không để ý đến những điều đó. Cô tìm cách tiếp cận với Bạch Bích cô độc. Bạch Bích nói câu nào cô đều tự nguyện kiên nhẫn lắng nghe, chứ không bỏ chạy như những đứa trẻ khác. Thế là, cô trở thành bạn thân của Bạch Bích và cũng là người bạn cùng tuổi duy nhất chiếm được lòng tin của cô. Sau này Bạch Bích học Mỹ thuật, Tiêu Sắt thì đến Học viện Sân khấu học khoa Biểu diễn. Tiêu Sắt luôn muốn trở thành một diễn viên, nhưng cô không có các mối quan hệ, lại không tự nguyện làm kiểu bán mình, kết quả là chỉ được đóng mấy bộ phim truyền hình vớ vẩn sống qua ngày. Hiện nay Tiêu Sắt chỉ có thể trở về đúng nghề của mình với việc diễn kịch. Vở kịch bây giờ đang tập là vở kịch đầu tiên của cô. Tuy vậy, mối quan hệ giữa cô và Bạch Bích vẫn tốt như xưa. Khi Bạch Bích và Giang Hà chuẩn bị kết hôn, Tiêu Sắt cũng thường xuyên ở bên cạnh họ để đưa ra các kế hoạch. Khi sửa chữa căn hộ này, Bạch Bích thậm chí còn chuyển sang ở với cô.

Sau khi Tiêu Sắt đi rồi, căn phòng lập tức trở nên lạnh lẽo. Chỉ có sự có mặt của Tiêu Sắt mới mang đến cho căn phòng chút sinh khí. Bây giờ nó lại trở về với sự trầm lặng chết chóc vốn có. Bạch Bích lại có cảm giác trống rỗng. Cô thấy có gì đó hụt hẫng ở trong tim. Cô nhìn những bông hoa trắng trong bình. Loại hoa này rất hợp để dùng trong tang lễ. Cô rất hối hận vì sao trong lễ truy điệu hôm qua cô đã không dâng tặng Giang Hà một bó hoa trắng như thế này. Cô luôn thích màu trắng, đặc biệt là hoa trắng, có lẽ cũng bởi vì đó là tượng trưng cho tên của cô.

Bạch Bích lại hướng ánh mắt ra trời đêm ngoài cửa sổ.

6

Thời tiết bắt đầu trở nên mát mẻ, ánh nắng đã nhạt dần. Một trận gió thổi qua làm váy của Bạch Bích nhẹ bay. Cô rẽ vào một con đường nhỏ, đường phố vắng bóng người, xe cộ đi lại cũng rất thưa thớt, thi thoảng có mấy em học sinh nhỏ băng qua đường.

Cô không nhớ rõ đã bao lâu rồi cô chưa trở lại đây, mười năm hay mười hai năm? Sau khi bố cô mất, cô không còn đến đây nữa, kể cả thời kỳ cô và Giang Hà yêu nhau. Lúc bố cô còn sống, cô thường xuyên đến đây, nhiều đến nỗi không đếm xuể. Thường thì cô cứ ngồi trên chiếc giá để sách báo trên xe đạp của bố cô, đi khoảng 15 phút là hai bố con đến Viện Nghiên cứu khảo cổ. Cũng có lúc mẹ cô đưa cô đến đây bằng xe bus. Thời gian đó bố cô thường xuyên phải đi khảo cổ ở bên ngoài, còn mẹ cô thường phải trực vào chủ nhật nên họ không yên tâm để cô ở nhà một mình. Bạch Bích có thể nhớ rõ từng chi tiết trên con đường này. Cô có một trí nhớ rất tốt, hơn nữa, những ký ức tuổi thơ cũng thường làm người ta khó quên.

Cô đã đứng trước cổng Viện Nghiên cứu Khảo cổ. So với ngày cô còn nhỏ, nó hầu như không mấy thay đổi, tấm biển trước cửa, khung cửa giản đơn… Tất cả đều giống như những cổ vật chôn ở dưới lòng đất. Thời gian mười năm qua đi chỉ như vừa trải qua một đêm. Sau khi đi qua cổng, hai bên đường đều là những hàng cây xanh, ở giữa có một con đường nhỏ. Cô có thể nghe thấy tiếng mấy chú chim đang hót ríu rít trên cành.

Cô nhẹ nhàng đẩy cửa bước vào tòa nhà nhỏ đó. Cô dựa theo trí nhớ hồi nhỏ, đi qua một hành lang ngắn, bước vào phòng làm việc đầu tiên. Mọi ánh mắt trong căn phòng lập tức hướng về phía cô. Họ biết cô. Có người gặp cô lần đầu tiên trong vai thiếu phụ ở tang lễ của Giang Hà. Có những người khoảng 30, 40 tuổi thì từ hơn mười năm trước, khi Bạch Chính Thu còn sống, đã biết đến cô bé con Bạch Bích rồi. Trong phòng rất yên lặng, yên lặng đến mức cô có thể nghe thấy cả tiếng thở của chính mình. Bạch Bích có cảm giác ánh mắt mọi người nhìn cô đều có gì đó không bình thường. Cô không biết trong những ánh mắt đó đang ẩn chứa điều gì, có lẽ là kinh ngạc, hoặc cũng có thể là sợ hãi.

– Bạch Bích, chú biết là thế nào cháu cũng sẽ đến.

Bạch Bích bị giật mình bởi tiếng nói từ phía sau. Cô quay đầu lại nhìn, thì ra là Viện trưởng Văn Hiếu Cổ. Ánh mắt của Văn Hiếu Cổ rất điềm tĩnh, ông nhìn cô khẽ gật đầu.

Đứng trước mặt ông, Bạch Bích cảm thấy có gì đó không được thoải mái cho lắm. Cô thấy mình như đang đứng trước bố mình. Nhưng lần này cô không gọi Văn Hiếu Cổ một cách thân mật nữa mà nói:

– Viện trưởng Văn, chào chú! Rất vui được gặp chú!

– Mấy ngày nay mọi việc vẫn tốt cả chứ cháu? Đi, sang phòng chú ngồi một lúc. Mọi người ở đây đều đang bận việc cả.

Văn Hiếu Cổ và Bạch Bích đi ra khỏi căn phòng đó.

Văn Hiếu Cổ dẫn Bạch Bích về phòng làm việc của mình.

Phòng làm việc của Viện trưởng rất rộng, chỉ hơi thiếu ánh sáng, cành cây sà xuống bên ngoài cửa sổ, làm cho căn phòng hơi tối tăm, ẩm ướt. Ánh sáng ở đây khiến Bạch Bích có cảm giác lạ lẫm, bất an, cô lúng túng đứng ở một góc.

– Ngồi xuống đi cháu!

Văn Hiếu Cổ rót cho cô một chén nước chè.

Bạch Bích ngoan ngoãn ngồi xuống.

Văn Hiếu Cổ nói tiếp:

– Bạch Bích, cháu phải lâu lắm rồi mới lại đến Viện đấy nhỉ. Lần gần đây nhất cháu đến đây là hồi cháu mới 10 tuổi, miệng còn ngậm một que kem, tưởng chẳng bao giờ lớn. Chú vẫn nhớ rất rõ cháu lúc đó, còn bây giờ, cháu đã lớn quá rồi, đã trưởng thành rồi.

Ông nhìn Bạch Bích và thở dài nói:

– Còn các chú thì đã già hết cả rồi!

Văn Hiếu Cổ đã 50 tuổi nhưng vẫn chưa lập gia đình. Trong ấn tượng của Bạch Bích, ông như không phải người của cõi trần, cả đời ông chỉ làm bạn với những ngôi mộ cổ.

Bạch Bích có phần e thẹn, cô im lặng hồi lâu rồi mới lên tiếng:

– Viện trưởng Văn, sao chú biết là cháu sẽ đến Viện?

– Vào hôm Giang Hà xảy ra sự cố, cậu ấy có nói, nếu cậu ấy chết ở đây thì cháu nhất định sẽ đến. – Văn Hiếu Cổ điềm tĩnh nói.

– Giang Hà nói thế ạ? – Hai vai Bạch Bích run lên, cổ họng cô thấy có gì đó nghèn nghẹn: – Hoá ra Giang Hà đã sớm dự cảm thấy có việc xảy ra với anh ấy, có lẽ cái chết của anh ấy không phải là một tai nạn.

– Tai nạn?

Văn Hiếu Cổ hỏi ngược lại. Ông nhìn Bạch Bích bằng một ánh mắt kỳ lạ. Ánh mắt mà Bạch Bích không thể hiểu nổi. Rất lâu sau, ông mới thốt ra được những lời nối tiếp với câu nói trước:

– Đương nhiên đó là một tai nạn… đương… nhiên là như vậy.

Giọng nói của ông rất kỳ cục. Bạch Bích nhìn vào khuôn mặt vô cảm của Văn Hiếu Cổ, hình như cô có thể cảm nhận được một điều gì đó. Cô định hỏi nhưng rồi lại ngừng lại. Trong mắt của Văn Hiếu Cổ đang giấu giếm điều gì đó mà không ai có thể nhìn thấu được.

– Hy vọng đấy đúng là một tai nạn. – Bạch Bích khẽ nói.

– Thôi không nói đến chuyện này nữa. Chú cũng rất đau lòng về việc của Giang Hà. Nó là đứa học trò giỏi nhất của chú. Chú luôn chú tâm bồi dưỡng cho nó. Nó có khả năng trở thành một nhà khảo cổ học vô cùng xuất sắc như Bùi Văn Trung, Giả Lan. Nó có thể tạo ra nhiều kỳ tích trong ngành Khảo cổ và đạt được đến đỉnh cao nhất của vinh quang. Ôi, chú xin lỗi, chú không nói nữa. Cháu thế nào? Cháu nên quên việc đáng sợ này đi, đừng để nó ở trong lòng, cháu vẫn còn trẻ, lại rất xinh đẹp, cháu còn nhiều cơ hội.

Lúc này Văn Hiếu Cổ mới hơi khẽ nhoẻn miệng cười.

– Cháu cảm ơn! – Bạch Bích nói.

– Thế mẹ cháu dạo này sao rồi? Vẫn khỏe chứ?

Ánh mắt của Văn Hiếu Cổ như sáng lên.

Bạch Bích lạnh lùng đáp:

– Mẹ cháu vẫn như thế, vẫn ở trong bệnh viện Tâm thần, chẳng có dấu hiệu biến chuyển gì.

– Chú cũng lâu lắm rồi không đến thăm mẹ cháu. Mấy hôm nữa chú sẽ tranh thủ lúc rỗi đến thăm bà một chuyến. Nhưng người mà chú lo lắng bây giờ là cháu, chú sợ cháu sẽ không chịu nổi những tác động của sự việc này.

– Cháu sẽ không sao đâu, chú yên tâm đi ạ. Viện trưởng Văn, sao hôm nay cháu không nhìn thấy Hứa An Đa?

Văn Hiếu Cổ thoáng chút đau buồn, nói:

– Hứa An Đa? Cháu chắc là chưa biết, nó cũng qua đời rồi, vào đúng buổi tối hôm lễ truy điệu của Giang Hà. Nó bị tai nạn giao thông ở bên bờ sông, lái xe mô tô đâm vào bờ đê, chết ngay tại chỗ, thảm lắm cháu ạ.

Hai vai của Bạch Bích lại bắt đầu run lên. Cô mở to mắt như không thể hiểu nổi tất cả những việc đang xảy ra. Cô nhớ lại hôm ấy sau khi kết thúc lễ truy điệu, Hứa An Đa đã muốn nói với cô điều gì nhưng lại thôi, rồi hình ảnh của anh ta trong bộ đồ thể thao màu đen, phi chiếc xe mô tô lao vút đi trước cửa nhà tang lễ.

Bạch Bích cúi gục đầu.

– Bạch Bích, cháu sao thế? Chú biết nếu cháu nghe thấy tin này nhất định sẽ rất kinh ngạc, nhưng dù sao việc cũng đã xảy ra rồi, chẳng ai có thể thay đổi được, mấy hôm nay cả Viện chỗ chú đều chìm trong bầu không khí u ám này.

Bạch Bích gật đầu:

– Vâng, việc này quả thật quá bất ngờ! Cháu không thể nghĩ rằng người như Hứa An Đa cũng xảy ra một tai nạn như thế.

– Cuộc đời mà cháu. Đâu biết được chữ ngờ!

Văn Hiếu Cổ đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ.

– Viện trưởng Văn, cháu có thể đến xem nơi Giang Hà xảy ra chuyện được không?

Bạch Bích cuối cùng cũng đã mạnh dạn hỏi ông.

Văn Hiếu Cổ gật đầu:

– Tất nhiên là được rồi.

Văn Hiếu Cổ dẫn Bạch Bích đi qua hành lang đến cửa một căn phòng khác.

Ông rút chìa khóa ra, vừa mở cửa phòng vừa nói:

– Từ sau khi Giang Hà xảy ra chuyện, căn phòng này bị khoá lại vì chẳng ai còn dám làm việc ở đây nữa.

Cửa phòng đã được mở, không khí ở đây rất bí làm cho Bạch Bích thấy khó thở. Cô chú ý đến cánh cửa sổ đang đóng, trên mặt đất phủ một lớp bụi dày. Trong phòng kê mấy cái bàn, trên bàn có máy vi tính và những thiết bị dùng trong ngành Khảo cổ. Dọc theo bức tường có kê một hàng tủ, bên trong bày các đồ vật sành sứ các loại, trong đó nổi bật nhất là một cái đầu lâu. Bạch Bích nhìn cái đầu lâu gớm ghiếc kia nhưng không hề cảm thấy sợ. Cô có thể cảm nhận được đó là những đồ vật của Giang Hà nên chả có gì đáng sợ cả.

Văn Hiếu Cổ dẫn Bạch Bích tiến sâu vào trong phòng. Ông chỉ vào cái đầu lâu và nói:

– Cháu biết không? Đây là xương sọ của một Thái tử đời Đường do Giang Hà tự tay đào lên đấy.

– Có lẽ, nó là nhân chứng duy nhất! – Bạch Bích nói.

Văn Hiếu Cổ nói với hàm ý sâu xa:

– Đúng rồi, nếu người chết có thể nói được thì tốt quá.

– Tất cả đồ ở đây đều chưa ai đụng đến, vẫn nguyên xi như hôm Giang Hà xảy ra chuyện. Sở Công an đến xem xét rất kỹ nhưng không phát hiện thấy gì bất thường, ngoài việc máy tính bị cậu ấy tắt đột ngột và thiết bị khảo cổ bị cậu ấy trực tiếp rút ổ cắm để tắt nguồn. Điều đó có thể khẳng định trước khi chết, cậu ấy đang làm việc với cái máy tính và thiết bị khảo cổ này. Có lẽ có việc gì đặc biệt làm gián đoạn công việc, khiến cậu ấy phải rút nguồn điện ra ngay lập tức. Cháu lại đây, chúng đều ở đây.

Văn Hiếu Cổ chỉ vào thiết bị khảo cổ và bộ vi tính trên cái bàn trước mặt.

Bạch Bích tới gần nhìn những đồ vật ấy, cô cảm thấy có một luồng khí đặc biệt xộc đến, trán cô bắt đầu lấm tấm mồ hôi.

Sau đó, Văn Hiếu Cổ lại chỉ xuống đất, sắc mặt căng thẳng nói:

– Sáng sớm hôm ấy, thi thể Giang Hà được phát hiện ở chỗ này.

Ông ngẩng đầu lên, thở dài một cái rồi nói tiếp:

– Mặt cậu ấy úp sấp xuống đất, đầu hướng về phía cửa, môi dính xuống đất, hai tay nắm chặt, nghe nói, sau khi chết họ không tài nào gỡ các ngón tay của cậu ấy ra được, cuối cùng phải dùng đến kìm để gỡ ra.

– Trong tay anh ấy đang cầm cái gì ạ?

Văn Hiếu Cổ nhìn vào gương mặt Bạch Bích từ từ nói:

– Trong tay cậu ấy chẳng có gì cả.

Bạch Bích im lặng, cô không cần phải nói gì lúc này, chỉ nhìn chằm chằm xuống đất, tưởng tượng ra khung cảnh hôm ấy. Cô như nhìn thấy Giang Hà ngã dưới chân mình, giơ ra một bàn tay đang nắm chặt.

Một lúc sau Bạch Bích mới ngẩng đầu lên. Cô bình tĩnh nói với Văn Hiếu Cổ:

– Viện trưởng Văn, trong máy vi tính có những gì ạ?

– Cái máy này chỉ mình Giang Hà sử dụng, chú cũng không rõ, sau khi xảy ra sự việc Sở Công an đã copy lại toàn bộ nội dung trong máy và mang đi, hình như đều là những số liệu nghiên cứu.

– Thế còn cái máy này thì sao ạ?

Bạch Bích đưa tay ra sờ nhẹ lên mặt thiết bị khảo cổ, một lớp bụi bám vào đầu ngón tay cô.

– Cái máy nhập khẩu này chú cũng không biết cách sử dụng. Nói thực, ở Viện các chú chỉ có mình Giang Hà biết sử dụng cái máy này. Cậu ấy quả thực là một đứa có tài, cái gì cậu ấy cũng tinh thông. Cái máy này có một cửa quét, có thể nhìn rõ và quét tất cả các cổ vật, đồng thời căn cứ vào lệnh của người sử dụng tự động tiến hành xử lí và tính toán các số liệu, cho ra các đồ thị và con số. Còn việc tối hôm ấy Giang Hà dùng cái máy này để kiểm tra cái gì, lấy được số liệu gì, e rằng chỉ có mình cậu ấy mới biết được.

Bạch Bích gật đầu, cô chỉ vào cái bàn trước mặt hỏi:

– Đây là cái bàn Giang Hà thường dùng ạ?

– Đúng rồi!

– Cháu có thể xem ngăn kéo của anh ấy được không ạ? – Cô thử hỏi.

– Đương nhiên là được rồi, Sở Công an cũng đã kiểm tra. Họ nói trong ấy toàn là đồ dùng cá nhân của Giang Hà, để lại cho người nhà nạn nhân đến giải quyết. Nhưng từ hôm ấy bố mẹ Giang Hà chưa tới lấy, cháu là vợ chưa cưới của nó, tất nhiên có thể mang đi được.

Bạch Bích đưa tay ra, do dự một lúc, cuối cùng cô cũng kéo ngăn kéo ra. Sau khi dừng lại một lúc, cô ngẩng đầu lên nói với Văn Hiếu Cổ:

– Xin lỗi Viện trưởng Văn, cháu có thể ở lại đây một mình một lúc được không?

– Ồ, không sao, chú có thể hiểu được tâm trạng của cháu, được, chú đi giải quyết một số việc ở Viện, chốc nữa lúc đi ra cháu đừng quên khoá cửa nhé.

Nói xong, Văn Hiếu Cổ nhẹ nhàng rời khỏi căn phòng, thuận tay đóng luôn cửa lại.

Trong phòng chỉ còn lại một mình Bạch Bích, trống trải, cửa đóng, im lặng không một tiếng động. Có lẽ cái đêm Giang Hà chết cũng giống như thế này. Cô ngẩng đầu lên nhìn xung quanh, trong lòng càng lúc càng cảm thấy bế tắc, giống như bị rơi xuống đầm lầy, giãy giụa mãi không thoát ra được và ngày càng bị chìm nghỉm vào trong cái vòng quay của số mệnh.

Bạch Bích lại cúi đầu xuống, đồ đạc trong ngăn kéo không nhiều, có mấy tờ báo số tháng trước được xếp gọn gàng, mấy quyển sách lịch sử và mấy quyển sách chuyên ngành Khảo cổ, quyển dày nhất là quyển “Nghiên cứu lịch sử”. Còn có một đôi găng tay, một cái kính lúp, mấy cái kẹp nhỏ và mấy cái thẻ tre. Đây đều là những vật thường dùng của Giang Hà khi đi khảo cổ. Phía trong cùng của ngăn kéo có một chùm chìa khoá. Cô cầm chùm chìa khoá lên, cô chưa bao giờ nhìn thấy Giang Hà có chùm chìa khoá này, có thể là chìa khoá dự phòng. Không còn vật gì khác, tất cả chỉ có vậy. Bạch Bích thở dài, cô như đang chờ đợi, chờ đợi phát hiện ra cái gì, nhưng, nếu như thật sự có một vật gì đó quan trọng thì chắc là cảnh sát đã mang đi điều tra rồi. Bạch Bích lắc đầu, cầm quyển “Nghiên cứu lịch sử” lên, thuận tay lật mấy trang, bỗng nhiên từ trong quyển sách rơi ra một cuốn sổ tay nhỏ.

Bạch Bích cẩn thận xem xét cuốn sổ tay này, mỏng, bìa màu trắng, cô nhẹ nhàng mở nó ra thì thấy ngay những dòng chữ được viết bằng bút mực đen ngay trên trang đầu tiên:

Đất hoang[6]

Tôi đã tận mắt nhìn thấy Xibila ở Cumai ngồi trong chai. Khi bọn trẻ hỏi: “Bà muốn gì, Xibila?” Xibila trả lời: “Muốn chết!

(Tặng Ezra Pound – người bậc thầy cao hơn tôi)

I. Lễ mai táng người chết

Tháng tư là tháng khắc nghiệt, gây ra

Màu tím tử đinh hương của đất, rồi hòa

Ký ức với ước mong, và gây xúc động

Nguồn cội mơ màng bằng mưa xuân trút xuống.

Hoá ra là “Đất hoang” của Eliot. Trước kia Bạch Bích đã đọc qua, tuy không dám nói là rất thích, nhưng trong đó có mấy câu có ấn tượng rất sâu sắc với cô. Nhưng cô có thể nhận ra, nét bút này không phải của Giang Hà. Chữ của Giang Hà hơi thô, còn chữ trong cuốn sổ thì rất mảnh và đẹp, chắc phải là chữ của một người con gái. Cô lại giở tiếp mấy trang nữa, đúng rồi, chính là trường ca đó, được chép đầy mấy trang giấy cho đến hai dòng cuối cùng: “Bình yên, bình yên, bình yên.”

Cuối cùng là tên tác giả bài thơ, tất nhiên là Eliot.

Nhưng dưới cùng còn có một dòng chữ khiến Bạch Bích cảm thấy lo lắng, dưới dòng tên Eliot có viết: “Nhiếp Tiểu Thanh tặng Giang Hà “.

Nhiếp Tiểu Thanh? Bạch Bích xưa nay chưa từng nghe đến cái tên này. Cô ta là ai? Thoạt nhìn cái tên này, cô lập tức liên tưởng đến câu chuyện “Nhiếp Tiểu Thanh” trong “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh và một bộ phim dựa trên câu chuyện đó có tên: “Âm hồn thanh nữ”. Đó là tên của một nữ quỷ, đã có một câu chuyện lay động lòng người với một thư sinh. Tất nhiên, Nhiếp Tiểu Thanh ở đây không phải là nhân vật dưới ngòi bút của Bồ Tùng Linh, có lẽ bố của Nhiếp Tiểu Thanh thích chuyện “Liêu trai chí dị” cho nên mới chọn một cái tên như thế đặt cho con gái.

Không nghi ngờ gì nữa, bài thơ “Đất hoang” của Eliot này là do một người con gái có tên là Nhiếp Tiểu Thanh chép lại. Cô ta đã mang cuốn sổ này tặng cho Giang Hà. Cuốn sổ đã nằm yên trong ngăn kéo của Giang Hà cho đến khi Bạch Bích tìm thấy nó.

Hoá ra sự việc không đơn giản như Bạch Bích tưởng tượng, cô lại thấy trong người bức bối trở lại. Cô cầm cuốn sổ tay lên tiếp tục giở, mười mấy trang phía sau đều là giấy trắng, không có gì. Cô nhẹ nhàng đặt cuốn sổ xuống mặt bàn, lúc đó, cô thấy ở cuối bìa sau của cuốn sổ viết hai chữ:

“Lời nguyền”.

Bạch Bích có thể khẳng định, hai chữ này là nét bút của Giang Hà. Lời nguyền? Lời nguyền về cái gì? Bạch Bích khe khẽ đọc:

– Lời… nguyền.

Hai chữ này có ý nghĩa gì? Vai Bạch Bích như bị ai đó dùng sức lắc mạnh, cô cúi đầu, toàn thân lạnh toát. Cô không muốn lưu lại căn phòng này nữa, cô phải ra khỏi đây, phải rời bỏ những thứ đang bám riết lấy cô. Cô tiện tay cầm luôn quyển sổ tay và chùm chìa khoá trong ngăn kéo. Cô cho chúng vào trong túi xách, sau đó vội vàng bước ra khỏi phòng và khoá cửa lại.

Cô không muốn gặp lại Văn Hiếu Cổ, chỉ muốn nhanh chóng rời khỏi Viện Nghiên cứu Khảo cổ. Cô không thể chịu đựng nổi không khí ở đây nữa, cho dù đây đã từng là nơi rất quen thuộc của cô. Cô đi qua dãy hành lang tối, vừa bước đến cổng chính thì từ phía đối diện có một người đàn ông dáng cao to đi tới.

Ông ta cười cười với Bạch Bích nói:

– Cháu là Bạch Bích đúng không? Lớn quá rồi, có nhớ ai không?

Bạch Bích nhìn người đàn ông đang đứng trước mặt, ông ta khoảng 35, 36 tuổi. Cô cố gắng lục trong trí nhớ để tìm lại khuôn mặt này, cuối cùng cũng hiện ra những hình ảnh mờ nhạt. Cô nói ngắt quãng:

– Hồi ấy, bố cháu hình như bảo cháu gọi chú là chú Lâm, đúng không ạ?

– Trí nhớ của cháu thật tốt, chú vẫn còn nhớ lúc nhỏ cháu vẫn hay ngồi vẽ ở phòng làm việc của bố cháu, có lần còn vẽ cả lê và táo lên trên bản đồ di chỉ khảo cổ. Chú là Lâm Tử Tố, là người phụ trách quản lý các di vật khai quật được.

Bạch Bích gật đầu. Cuối cùng cô đã nhớ ra người đàn ông đang đứng trước mặt. Hồi đó, Lâm Tử Tố còn là một thanh niên khoảng hơn 20 tuổi, vừa vào Viện Nghiên cứu. Cô còn nhớ lúc đó Lâm Tử Tố thường ăn mặc rất mốt.

Cô nói:

– Chào chú, hôm nay cháu chỉ đến xem lại nơi Giang Hà xảy ra chuyện thôi.

– Cháu hãy quên tất cả đi, đừng đến đây nữa làm gì. Việc ấy không liên quan gì đến cháu! – Giọng Lâm Tử Tố bỗng nhiên trở nên rất nghiêm túc.

Sao cách nói này lại giống hệt với của Hứa An Đa hôm nọ thế nhỉ? Trong lòng Bạch Bích cảm thấy đầy nghi hoặc. Cô hỏi ngược lại:

– Rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì hả chú? Chú nhất định phải nói cho cháu rõ, cháu xin chú đấy!

– Bạch Bích, cháu vẫn còn trẻ, tương lai còn dài. Cháu đừng nên vì những việc này mà chuốc lấy nguy hiểm, không đáng đâu!

– Nguy hiểm gì cơ? Chú nói cho cháu biết đi!

– Cháu xem, Giang Hà đã chết không rõ ràng, cháu chắc cũng đã biết, Hứa An Đa cũng chết rồi. Cả hai người cháu đều quen, có thể còn nhiều người nữa. – Lâm Tử Tố lạnh lùng trả lời.

– Còn nhiều người nữa, ý chú đây không phải là một việc đơn lẻ sao? Còn có những uẩn khúc khác sao? Có thật là đáng sợ thế không ạ? – Bạch Bích không muốn bỏ qua cơ hội này.

Lâm Tử Tố lắc đầu:

– Xin lỗi cháu, chú đã nói quá nhiều rồi. Chú không thể nói tiếp được nữa. Chào cháu!

Nói rồi Lâm Tử Tố quay người bỏ đi.

Bạch Bích bỗng nhớ ra điều gì đó nên gọi với theo:

– Cháu muốn hỏi một câu cuối cùng. Nhiếp Tiểu Thanh là ai ạ?

Lâm Tử Tố từ từ quay người lại, nhìn cô bằng ánh mắt lạ lùng, rồi từ từ nói:

– Cháu hỏi việc đó để làm gì?

– Xin lỗi chú, cháu chỉ là muốn biết một chút thôi! – Bạch Bích quyết hỏi đến cùng.

– Cô ta chỉ là một nghiên cứu sinh đến thực tập ở Viện, được giáo sư Lý ở Viện Nghiên cứu Cổ sinh vật giới thiệu đến. Cô ta chỉ thực tập ở Viện có ba tuần. Có vấn đề gì sao cháu?

– Cám ơn chú, không có gì ạ, cháu chỉ tiện thể hỏi chú chút thôi!

Lâm Tử Tố cau mày, nhẹ nhàng nói:

– Cháu đừng có để ý đến những việc như thế này nữa. Ác mộng mới chỉ bắt đầu thôi. Hãy tin chú đi!

Nói xong, Lâm Tử Tố quay đầu bỏ đi. Bóng ông ta khuất nhanh sau dãy hành lang tối om.

Xung quanh không một bóng người, không gian lại trở lại yên tĩnh như vốn có. Bạch Bích ôm lấy vai, cô cảm thấy hơi lạnh. Cô vội vàng rời khỏi dãy nhà, đi men theo con đường nhỏ, xuyên qua các hàng cây, bước ra khỏi cổng chính của Viện Nghiên cứu Khảo cổ.

Ra khỏi cổng chính, lúc này chỉ còn vương lại chút nắng nhạt. Ánh mặt trời làm cho làn da trắng của cô có chút sắc hồng. Con đường phía trước vẫn vắng tanh. Vừa rời khỏi cổng viện, cô đã phát hiện phía trước có một đôi mắt đang hướng về phía cô. Bạch Bích nhìn sang phía bên kia đường, cô thấy có một thanh niên đang đứng đó nhìn cô.

– Giang Hà – Cô khẽ thốt ra cái tên ấy.

Trong phút chốc, vai cô bỗng run lên bần bật. Trong nỗi lo sợ tột cùng, vẫn xen lẫn nỗi xúc động, hưng phấn khiến cô như muốn lao sang bên kia đường, nhưng một chiếc ô tô phóng vụt qua đã ngăn cản bước chân cô. Cô tiếp tục đứng chôn chân ở cổng Viện Nghiên cứu Khảo cổ. Không, người này không thể là Giang Hà, mặc dù trông rất giống nhưng tuyệt đối không phải là cùng một người. Bạch Bích thở dài nhè nhẹ, sau đó cô tự nói vài câu giễu cợt chính mình. Nhưng cô không thể không ngẩng đầu lên nhìn người thanh niên đứng bên kia đường. Anh ta dáng người khỏe mạnh, khuôn mặt giống Giang Hà, đường nét đơn giản và rắn chắc, thể hiện nét hơi u buồn, nhưng đôi mắt rất lanh lợi, tưởng như có thể nhìn xuyên được cô. Ánh mắt ấy khiến cô cảm thấy lúng túng. Cô không muốn nhìn anh ta nữa, vội vàng rời khỏi nơi đó.

Người thanh niên bên kia đường lặng lẽ đứng nhìn Bạch Bích bỏ đi, sau đó tiếp tục đứng đó quan sát cổng chính của Viện Nghiên cứu Khảo cổ.

Anh chính là Diệp Tiêu.

7

Bạch Bích ngồi dưới ánh đèn dìu dịu, mở cuốn sổ mang từ ngăn kéo Giang Hà về. Cô khẽ đọc những dòng thơ trong “Đất hoang” của Eliot do Nhiếp Tiểu Thanh chép.

Giọng cô rất dịu dàng. Giang Hà đã từng nhận xét, anh luôn bị mê hoặc bởi chất giọng của cô, được nghe cô nói là một sự hưởng thụ kỳ diệu. Lúc này, âm thanh đó đang vang vọng trong căn phòng của Bạch Bích, trong từng góc phòng, trên cửa sổ, dưới nền nhà đều phát ra tiếng vọng lại khe khẽ. Nét chữ trên giấy quả thực rất đẹp, màu mực đen của bút sắt, từng nét, từng nét đều thể hiện một khí chất đặc biệt. Nét chữ có thể biểu hiện khí chất của con người, cô luôn tin điều này. Bạch Bích như có thể thông qua nét chữ này mà hình dung ra hình dáng của Nhiếp Tiểu Thanh, mắt, mũi, gò má của cô ta, đặc biệt là bàn tay cầm bút. Nghĩ đến đây, trong lòng Bạch Bích cảm thấy rối bời. Cô không muốn nghĩ đến người con gái có tên Nhiếp Tiểu Thanh này nữa, chẳng qua cô ta cũng chỉ là một người thích chép thơ mà thôi. Bạch Bích trước kia cũng đã từng chép rất nhiều những vần thơ cô thích, điều đó thật quá bình thường. Lúc này cô có thể tưởng tượng ra, chỉ có Eliot, một nhà thơ sinh ra ở Mỹ, rồi trở thành công dân Anh quốc, có một cuộc sống gia đình bất hạnh, vợ ông – Vivian sống ở bệnh viện Tâm thần mười một năm, có lẽ chỉ có người như vậy mới có thể viết nên được kiệt tác “Đất hoang”.

Khi đọc đến đoạn này, bỗng nhiên hai vai cô khẽ run lên…

Và em sẽ chỉ cho anh một cái gì đó
Không như cái bóng người buổi sáng ở sau lưng
Hay cái bóng buổi chiều ở trước mặt anh
Em sẽ chỉ ra trong một nắm tro tàn sợ hãi.

Bạch Bích như đọc được từ giữa những hàng chữ một điều gì đó… “cái bóng người buổi sáng ở sau lưng”, rồi… “trong một nắm tro tàn sợ hãi.”

Câu này có ý nghĩa gì nhỉ? Có lẽ chỉ là một sự mô tả của tinh thần và bầu không khí nhưng nó khiến cho Bạch Bích thấy sởn tóc gáy. Có phải là lời trong thơ của Eliot không? Có lẽ mỗi người chúng ta đều không có cách nào chạy trốn khỏi cái bóng của chính, cũng như không có cách nào chạy trốn khỏi nỗi sợ hãi, bởi vì chúng ta rồi sẽ đều trở về với cát bụi. Và trong đám cát bụi đó chôn vùi nỗi sợ hãi vĩnh hằng. Nhưng bây giờ, dù không có nắm tro tàn, Bạch Bích vẫn có thể cảm thấy như mình đang chạm vào nỗi sợ hãi đó.

Cô đọc tiếp:

Gió thổi về quê hương.
Em nơi mô chờ đợi
Hở cô bé Ai-len?

Không biết Bạch Bích đã đọc trong bao nhiêu lâu mới đọc hết được toàn bộ trường ca này. Đọc xong cổ họng cô lập tức cảm thấy khát khô. Cô uống hết một cốc nước, cảm thấy trên trán lấm tấm mồ hôi. Cô xem lại câu cuối cùng: “Nhiếp Tiểu Thanh tặng Giang Hà”, hơn nữa việc này xảy ra trước khi Giang Hà chết không lâu. Có lẽ cô không nên nghĩ ngợi lung tung, nhưng trong đầu Bạch Bích vẫn hiện lên hình ảnh Giang Hà lúc nhận cuốn sổ. Giang Hà nhất định cũng đã đọc hết “Đất hoang” trong cuốn sổ này. Khi đọc lại “Đất hoang”, anh ấy đã nghĩ gì nhỉ? Sợ hãi hay là một cảm giác gì khác? Cô tự nói với mình, bây giờ tất cả đã kết thúc rồi. Bạch Bích bỗng tự hỏi mình, có thật là tất cả đã kết thúc thật không? Nhưng cô không tìm thấy câu trả lời.

Gấp cuốn sổ lại, cô lại nhìn thấy hai chữ “Lời nguyền” ở bìa sau. Giang Hà viết hai chữ này làm gì nhỉ? Tại sao anh lại viết ở bìa sau cuốn sổ tay này? Lẽ nào chỉ là trùng hợp, hay cuốn sổ này đúng là tượng trưng cho một điều gì đó? Cô lại nhớ đến những lời Lâm Tử Tố nói hôm nay ở Viện Nghiên cứu khảo cổ, có lẽ tiếp theo còn có người sẽ phải chết, đây chẳng phải là lời nguyền sao? Lời nguyền này của ai và nguyền rủa những ai? Đầu Bạch Bích trống rỗng.

Bạch Bích nhớ lại cái đêm trước khi xảy ra sự việc một tháng, lúc Giang Hà từ Tân Cương về, có lẽ mầm mống của cái chết đã được gieo từ lúc đó. Chứ trước khi đi Tân Cương, Giang Hà đâu có biểu hiện như thế. Đôi mắt của Giang Hà lại hiện lên trong đầu Bạch Bích, trong cặp mắt ấy có vùng đất hoang ở Tây Bắc, có hoang mạc mịt mù. Cô biết rằng, nơi họ đến là hồ La Bố. Ở vùng hồ La Bố đó có một di chỉ văn minh cổ đại rất lớn. Đó là Thành cổ Lâu Lan.

Cô nhớ lại một buổi tối cách đây hơn 10 năm, khi ấy cô chưa đến 10 tuổi, Văn Hiếu Cổ đến nhà cô tranh luận kịch liệt với bố cô về nhiều vấn đề thuộc về nền văn minh Thành cổ Lâu Lan. Mẹ cô như muốn tránh né chủ đề này, còn cô bé Bạch Bích ngồi bên cạnh, nhưng không hiểu họ đang nói gì. Cô chỉ nhớ rằng bố cô kiên quyết phản đối việc quay lại tiến hành các hoạt động khảo cổ ở Thành cổ Lâu Lan. Ánh mắt của Bạch Chính Thu lúc nói bộc lộ một sự sợ hãi. Sự sợ hãi khủng khiếp trong đêm đó đã lưu lại ấn tượng rất sâu trong ký ức của Bạch Bích. Đúng rồi, cuối cùng cô đã nhớ ra. Bố cô đã từng nói, ông đã đi đến di chỉ Thành cổ Lâu Lan cả thảy hai lần. Lần thứ nhất là lúc Bạch Bích chưa ra đời, lần thứ hai là sau khi cô ra đời không lâu và lần thứ hai thì mẹ cô cũng đi cùng.

Bố cô nhất định còn để lại cái gì đó. Cô nhớ bố cô có một chồng lớn tài liệu vẫn để trong nhà. Tất cả đều là do ông ghi chép lại. Trong ký ức của cô, hầu như đêm nào bố cô cũng đem những tài liệu ấy ra xem rất tỉ mỉ, rồi lại cẩn thận cất đi. Bạch Bích đứng lên, đi sang căn phòng bên cạnh. Ở đó cất giữ những đồ cũ, trong đó có một tủ sách lớn, cửa tủ đóng, phủ đầy bụi. Bạch Bích từ trước đến nay chưa từng mở ra, có lẽ cô không muốn nhớ đến nỗi đau mất bố. Nhưng hôm nay cô quyết tâm mở tủ sách này.

Vừa mở cửa tủ, mùi ẩm mốc khiến cô phải quay mặt đi, phải một lúc lâu sau, mùi đó mới từ từ tan đi. Bạch Bích cẩn thận đưa tay ra lấy những thứ ở bên trong, toàn là những tập tài liệu dày cộp, có loại chép tay, có loại in ấn, phải mất rất lâu cô mới đưa được hết chúng ra bàn.

Đống tài liệu quả thực rất nhiều, cô giở lướt qua, những tài liệu này có đầy đủ từ thời đại đồ đá cũ đến Dân quốc, trong đó có bản ghi chép về nghiên cứu lịch sử và văn hiến cổ đại, còn có cả những bản phô-tô các bản báo cáo khai quật khảo cổ và những sơ đồ tư liệu di vật, có cả một số ghi chép và luận văn của bố cô. Nếu muốn xem hết có lẽ phải đọc liên tục trong mấy tuần lễ.

Rất may, bố cô đã căn cứ sắp xếp chúng theo từng khu vực nên Bạch Bích nhanh chóng tìm ra tài liệu ở vùng Tân Cương. Cô nhận thấy tài liệu ở khu vực này tương đối nhiều, có lẽ bố cô nghiên cứu khá nhiều về Tây vực. Trong những tài liệu ông lưu giữ về các nền văn minh cổ đại ở Tân Cương thì tài liệu nhiều nhất là về Thành cổ Lâu Lan. Bạch Bích đặt riêng những tài liệu dày cộp đó ra một chỗ. Cô tiện tay rút một tập ra xem, thế là, hồ La Bố và Thành cổ Lâu Lan dần dần hiện ra trước mắt cô giống như bức tranh đang treo trên tường.

Hồ La Bố nằm ở biên giới giữa vùng Đông Bắc và huyện Nhược Khương. Hồ nằm ở độ cao trên mực nước biển 780m, diện tích còn sót lại khoảng 2400 đến 3000 km2, hiện nay hoàn toàn khô cạn. Hồ La Bố nguyên là đầm chứa nước của sông Khổng Tước. Trên thượng lưu sông Khổng Tước, hồ dương và hồng liễu mọc thành rừng, lau sậy khắp nơi, tập trung vô số thú dữ và chim muông. Ba bốn nghìn năm trước, vào thời đại đồ đá mới đã có sự cư trú của con người ở vùng đất này. Dưới hạ lưu của sông Khổng Tước và ven bờ của hồ La Bố đã phát hiện rất nhiều dấu ấn văn hoá thuộc thời đồ đá mới.

Nước Lâu Lan trong thời kỳ phồn thịnh của thời Hán, Tấn, đồng xanh ngàn dặm, lương thực dư thừa, hàng hoá di chuyển không ngớt trên lưng những đội lạc đà, các trạm dịch và lữ khách đông đúc; chuông trống đền miếu du dương, Phật giáo phát triển. Triều đình phái binh lính đi đóng quân khai khẩn đất hoang, cai quản tất cả các vùng đất xa gần. Nhưng thời kỳ huy hoàng của cổ quốc Lâu Lan trong lịch sử kéo dài không lâu, chỉ đến thế kỷ 4, 5 sau công nguyên, Lâu Lan dần dần không xuất hiện trong sử sách nữa. Khi Huyền Trang trên đường đi Tây Thiên thỉnh kinh qua đây thì đây đã là một sa mạc không một bóng người. Trong dòng chảy của lịch sử, Lâu Lan đã bị lãng quên đi như thế trong ký ức của nhân loại.

Cho đến năm 1900, tức là hơn 1000 năm sau, vào ngày 28 tháng 3, trong chuyến thăm dò phía tây hồ La Bố của nhà thám hiểm người Thụy Điển Sven Ahders Hedin, người dẫn đường của ông tên là A Nhĩ Địch Khắc, người dân tộc Duy Ngô Nhĩ, trong lúc quay lại nơi cắm trại khảo sát để tìm cái cuốc bỏ quên, gặp phải cơn gió lớn lạc mất phương hướng. Nhưng A Nhĩ Địch Khắc đã dũng cảm dựa vào ánh trăng mờ nhạt chẳng những đã trở lại được nơi cắm trại cũ tìm được cái cuốc bị mất mà còn phát hiện ra một ngôi Phật tháp và một đống đổ nát. Ở đó có những đồ gỗ được chạm khắc tinh xảo chôn vùi trong cát, còn có cả tiền đồng thời cổ đại. Di chỉ mà A Nhĩ Địch Khắc tìm thấy trong đêm tối mênh mang đó chính là Thành cổ Lâu Lan. Sven Ahders Hedin trong nhật ký của mình đã viết: “Việc A Nhĩ Địch Khắc để quên cái cuốc đã trở thành một may mắn vô cùng, nếu không, tôi sẽ không thể nào trở về thành cổ này. Điều này đã mang đến cho lịch sử vùng Trung Á cổ đại một ánh sáng phát hiện quan trọng, cho đến nay, có lẽ vẫn chưa thể hoàn thành.”

Từ mùng 4 đến mùng 10 tháng 3 năm 1901, Sven Ahders Hedin đã quay lại nơi đây, thuê nhân công đào bới quanh khu vực Thành cổ Lâu Lan, thu được số lượng lớn tiền sắt đời Hán, những đồ tơ tằm tinh xảo thời Hán Tấn, những vật bằng thủy tinh, binh khí, công cụ bằng đồng sắt, gương đồng, đồ trang sức, lại còn cả các tượng khắc gỗ theo nghệ thuật Gandhara[7]. Ngoài ra, còn có thẻ bài bằng gỗ đời Hán Tấn mang giá trị lịch sử rất cao, những văn thư bằng giấy có đến hơn 270 tập. Tiếp theo sau Sven Ahders Hedin, Marc Aurel Stein[8] cũng đã khai quật được số lượng lớn di vật ở Thành cổ Lâu Lan, chỉ riêng văn thư chữ Hán đã có 349 tập, và một số lượng không nhỏ văn thư chữ Kharosthi. Phần lớn các di vật, đặc biệt là những văn thư bằng giấy đều được bảo tồn một cách khá nguyên vẹn. Điều này có liên quan trực tiếp đến khí hậu khô hanh ở vùng này, cũng giống như Ai Cập cổ đại đã được bảo tồn hoàn chỉnh trong sa mạc bốn, năm nghìn năm về trước.

Bạch Bích còn tìm thấy một tập bản photocopy các bài viết của các học giả nổi tiếng mà bố cô tập hợp lại. Những bài viết này đều đề cập đến nguyên nhân biến mất thần bí của nền văn minh Lâu Lan. Bạch Bích đọc lướt qua. Cô phát hiện thấy phần lớn các lý giải đều khác xa nhau, có người cho rằng do dòng nước từ thượng nguồn đổ về bị cắt đứt nên dân chúng đã bỏ thành mà đi. Cũng có người cho rằng tự thân môi trường của Lâu Lan đã bị hủy hoại. Và kết cục này là sự trừng phạt của thiên nhiên với con người. Cũng có người cho rằng do có giặc ngoại xâm đã dùng vũ lực hủy diệt nền văn minh Lâu Lan. Nhưng sau rất nhiều những truyền thuyết và suy đoán đó, mọi thứ dường như vẫn là một câu đố cổ xưa chưa có lời giải đáp.

Nhưng ở phía sau đoạn tài liệu cuối cùng về nguyên nhân tiêu vong của Lâu Lan, Bạch Bích đọc được một dòng chữ do bố cô ghi lại: “Bọn họ đều đã nghĩ sai hết cả, sự tiêu vong của Lâu Lan không nằm trong bất cứ nguyên nhân nào trên đây.”

Bố cô luôn thích viết những cảm nghĩ và nhận xét của mình ở mọi nơi nhưng một luận điểm to gan như thế này quả thực là hiếm thấy, bởi vì những bài luận văn đó đều là của những học giả nổi tiếng trong và ngoài nước. Họ đều là những người có uy tín, còn bố cô sinh thời chẳng qua là một kẻ vô danh tiểu tốt chẳng có tiếng tăm gì.

Trong một chồng tài liệu, Bạch Bích nhìn thấy có mấy trang photocopy. Chữ trong bản phô tô là một loại chữ đặc biệt. Tổng cộng có mười mấy trang, mỗi trang có mấy chục dòng, trong đó có mấy dòng chữ bị thiếu. Những chữ này có hình dây, xếp thành hàng ngang ngay ngắn, xem ra là một loại chữ cổ nào đó. Bạch Bích có cảm giác cô rất quen thuộc với kiểu chữ này. Lưng cô lập tức ướt đẫm mồ hôi, mặc dù cô chẳng hiểu một chữ nào trên đó. Điều này càng làm cô cảm thấy bất an. Cô cố gắng hồi tưởng trong đầu hình bóng loại chữ trước mắt. Chúng như đang chuyển mình động đậy, nhảy múa trước mặt cô. Tai cô văng vẳng tiếng nhạc cổ, ánh đèn dao động, một chiếc eo thon và một cặp mắt to. Cuối cùng cô đã nhớ ra. Đó là một giấc mơ, giấc mơ năm cô 10 tuổi. Một người phụ nữ đã đến trong giấc mơ của cô, viết lên tường mấy chữ. Đúng, chính là loại chữ này. Tuy cô không hiểu, nhưng bút pháp và đường nét thì không nghi ngờ gì nữa, chính là loại chữ này. Chính ngày hôm sau sau giấc mơ ấy, bố cô đã bị tai nạn giao thông và vĩnh viễn rời xa cô. Vì thế, cô mãi mãi ghi nhớ giấc mơ đó.

Đằng sau tập tài liệu phô tô đó còn có một bài viết của bố cô. Bài viết không dài nhưng tiêu đề thì dài một cách đáng sợ. Bài viết có tên: “Lý giải về những nội dung tôn giáo có liên quan trong văn thư chữ Kharosthi tìm được tại di chỉ Lâu Lan”. Nội dung bài viết rất sâu sắc, không phải là người trong nghề đọc sẽ rất khó hiểu, Bạch Bích đọc qua mới biết những chữ cổ trong tập phô tô vừa nãy được gọi là “chữ Kharosthi”. Chữ Kharosthi là một loại chữ kí âm rất cổ. Nếu lật ngược dòng lịch sử thì chữ Kharosthi là một dạng biến thể của chữ Elamite[9], được sử dụng như loại chữ chính thức trong triều đình từ thời Vương triều Achaemenid[10], thuộc Ba Tư cổ. Loại chữ này về sau trở thành một trong những loại chữ chính thức của đế quốc Kushan[11], lưu hành khắp vùng Trung Á rộng lớn. Lúc ban đầu, chữ Kharosthi dùng để ghi chép các câu tục ngữ trong tiếng địa phương của tiếng Arya[12], nằm trong lưu vực sông Ấn Độ cổ, lưu hành ở khắp vùng Peshawar[13], nơi đã sản sinh ra nền văn minh Gandhara nổi tiếng, kết quả của sự giao lưu giữa hai nền văn hoá Đông Tây. Vào khoảng cuối thế kỷ 2 sau Công nguyên, nền văn minh Gandhara và chữ Kharosthi bắt đầu truyền bá về phía Đông đến Pamir[14] và cũng là chữ viết chính thức của nhiều quốc gia khác trong lòng chảo Tarim[15], như Sơ Lặc, Vu Điền, Lâu Lan và Qui Từ[16]. Các nước Vu Điền, Sơ Lặc và Qui Từ chỉ dùng loại chữ viết này trong một khoảng thời gian ngắn, chỉ có người Lâu Lan tiếp tục sử dụng chữ Kharosthi đến tận cuối thế kỷ 4 sau Công nguyên.

Phía sau những tư liệu ấy Bạch Bích phát hiện thấy có mấy bức ảnh đen trắng. Cô chắc chắn những bức ảnh này là do bố cô chụp. Cô biết trong nhà có một chiếc máy ảnh đen trắng cũ. Bố cô thường hay thích chụp ảnh bằng chiếc máy ảnh này. Những bức ảnh trước mặt cô lúc này chụp cảnh đồng hoang mênh mông, toàn những đá dăm và cát bụi, hai mảng đen trắng hợp thành, vô cùng đơn điệu. Cô nghĩ đến bức tranh treo trên tường của mình. Cô bắt đầu hiểu ra tại sao vào đúng hôm bố cô qua đời, ông lại hồn bay phách lạc đến thế khi nhìn thấy bức tranh này. Những thứ cô gặp trong mơ đều là những thứ bố cô đã nhìn thấy, thậm chí còn chụp ảnh lại. Còn có mấy bức ảnh về di chỉ thành cổ Lâu Lan, toà Phật tháp cao và những ngôi mộ trong hoang mạc. Trong đó có bức ảnh sợ nhất là chụp về một loạt các di hài người chết, toàn là xác khô, mặc dù trông đã hoá đen cả, mặt mũi dữ tợn, nhưng phải nói là chúng đã được bảo quản rất hoàn hảo. Những xác người Lâu Lan cổ trông như những xác ướp này cứ xếp hàng dài dưới ánh nắng mặt trời trên đồng hoang như thế suốt thời cổ đại. Có lẽ bố cô đã chụp lại chúng ngay khi vừa mới đào lên.

Nhưng bức ảnh cuối cùng mới khiến Bạch Bích phải giật mình. Đó không phải là bức ảnh chụp di chỉ, cũng không phải là ảnh về một loại người cổ gì mà là ảnh của một người con gái. Một tấm ảnh của một người cô gái trẻ vẫn còn sống. Cô ta mặc một chiếc váy không biết là của dân tộc nào, da rất trắng, mắt đặc biệt to, sống mũi thẳng, mái tóc đen nhánh được kết thành nhiều bím nhỏ. Cô gái chắc trạc độ 20 tuổi, đang đứng dưới ánh nắng mặt trời, khung cảnh phía sau hình như có cây cối và một mái nhà. Vẻ mặt cô đang biểu hiện một điều gì đó rất khó diễn tả bằng lời, đôi môi mỏng, mép hơi nhếch lên, chiếc cằm trông rất xinh. Đặc biệt là đôi mắt đang lấp lánh dưới ánh mặt trời. Đó tuyệt đối không phải là đôi mắt của người Hán. Đôi mắt đó chỉ thuộc về Tây Vực cổ xa xôi, huyền bí và khó hiểu. Đôi mắt đó như chứa đựng rất nhiều những bí mật cổ. Để đến nhiều năm sau, khi xem bức ảnh này, Bạch Bích vẫn nhìn hướng về người con gái ấy như nhìn về phía một nữ thần.

Bạch Bích hơi run, cô lặng lẽ nhìn cô gái trong bức ảnh. Trong khoảnh khắc, cô như cảm thấy người trong ảnh đang nói chuyện với cô.

Cô đưa tai ra lắng nghe, nhưng cô không thấy gì ngoài tiếng gió đang thổi bên ngoài cửa sổ.

8

Ánh nắng cuối cùng cũng chiếu vào trong phòng, Bạch Bích mở to mắt ngắm tia sáng mênh mang ngoài cửa sổ. Cô biết rằng suốt đêm mình ngủ không ngon, sắc mặt sau khi tỉnh dậy càng trắng bệch hơn, Bạch Bích đưa tay lên vuốt vuốt mái tóc, những sợi tóc trơn tuột giữa các ngón tay.

Cô ngồi trước cửa sổ, mở giá vẽ và bảng màu ra. Bạch Bích giờ chỉ vẽ thuê cho các phòng tranh, cô không còn hứng thú trở thành họa sĩ nữa, cho dù lúc còn nhỏ bố cô rất hy vọng vào điều này. Cô chỉ muốn trở thành một thợ vẽ giỏi. Thợ vẽ thực ra là một người thợ. Cô cho là làm một thợ vẽ có ý nghĩa hơn nhiều so với trở thành một họa sĩ. Thợ vẽ lúc nào cũng âm thầm lặng lẽ. Tác phẩm của người thợ vẽ được mọi người ngắm nghía. Thợ vẽ chỉ biết vui vẻ làm việc, không có gánh nặng gì nhiều. Cô thích cái cảm giác của người thợ vẽ. Những bức tranh bày trên những phòng tranh ven phố, có lẽ chẳng đáng giá bao nhiêu tiền, đương nhiên thỉnh thoảng cũng có những bức tranh được kẻ đang phất ném ra cả ngàn tệ mua về. Bạch Bích không có cảm giác đặc biệt với những trường hợp như thế. Cô chỉ cần phòng tranh trả tiền công đúng hẹn cho cô, còn cô thì cứ đúng hẹn giao tranh là được, những vấn đề khác, cô không quan tâm.

Hôm nay vẽ gì đây?

Cô muốn vẽ hồ La Bố. Cô bắt đầu dùng bút chì vẽ phác qua. Chỉ vừa mới phác được nét đầu tiên, tiếng chuông cửa bỗng vang lên. Bạch Bích đặt bút xuống, đi ra phía cửa. Cô cứ ngỡ là Tiêu Sắt đến, nhưng sau khi mở cửa, cô phát hiện thấy đứng trước cửa nhà lúc này là một người đàn ông vừa quen vừa lạ.

Cô quen khuôn mặt này, nhưng không quen con người này, bởi vì từ cái nhìn đầu tiên cô đã biết rằng người đàn ông này không phải là Giang Hà của cô. Giang Hà của cô đã hoá thành tro bụi chôn sâu trong lòng đất, mãi mãi không không thể nào xuất hiện trước mặt cô nữa. Mặc dù, cô cảm thấy khuôn mặt đứng trước cô rất quen, nhưng ánh mắt của anh ta lại rất xa lạ. Bạch Bích lập tức nhớ ra, chiều qua ở cổng Viện Nghiên cứu Khảo cổ, chính người đàn ông này đã đứng ở bên kia đường nhìn cô.

Đúng rồi, cô nhớ đôi mắt của người đàn ông này, hơn nữa cô còn nhớ đến một câu nói: “Khuôn mặt quen thuộc là cạm bẫy lớn nhất”, nên cô lập tức có phản ứng tự vệ, cô chỉ mở hé cửa, thận trọng hỏi:

– Anh là ai?

Người thanh niên móc trong túi ra một tấm thẻ đưa ra trước mắt Bạch Bích. Tên trên tấm thẻ là Diệp Tiêu, đơn vị công tác là Sở Công an thành phố. Bạch Bích gật đầu, mở cửa để cho anh ta bước vào và tỏ ý xin lỗi:

– Xin lỗi, tôi không biết anh là cảnh sát!

Diệp Tiêu vẫn nhìn cô bằng ánh mắt ấy, nói:

– Không sao, tôi vẫn mặc thường phục khi làm việc. Cô là Bạch Bích?

– Vâng!

Bạch Bích né tránh ánh mắt của anh ta, nói đúng ra là cô không muốn nhìn khuôn mặt quen thuộc này.

– Tôi là Diệp Tiêu. Tôi phụ trách điều tra vụ án của Giang Hà.

Sau khi bước vào trong được vài bước, anh nhìn thấy trong phòng xếp đầy giấy vẽ và bột màu, liền hỏi:

– Cô là họa sĩ à?

Bạch Bích lạnh lùng đáp:

– Không, tôi chỉ là người vẽ tranh cho các phòng tranh mà thôi, sao dám nhận là họa sĩ được.

– Ồ, cô đang vẽ gì vậy?

– Không, không có gì!

Bạch Bích bắt tay vào thu dọn giấy vẽ và bột màu, Diệp Tiêu đứng cạnh nhìn cô khiến cô hơi căng thẳng, đến nỗi dây cả một ít màu vẽ vào tay.

– Xin lỗi anh, tôi phải đi rửa tay!

Bạch Bích vội vàng đi vào phòng vệ sinh. Diệp Tiêu vẫn đứng trong phòng ngắm nhìn sự bày biện và trang trí. Anh có thể nghe rõ tiếng nước đang chảy từ vòi nước trong phòng vệ sinh. Anh chú ý đến bức tranh treo trên tường, nhìn kỹ anh thấy có gì đó rất khác thường. Diệp Tiêu vốn cũng học qua mỹ thuật. Trước khi thi vào trường Cảnh sát, anh đã từng mơ ước thi vào trường Mỹ thuật, nhưng sau này anh đã thất bại. Tiếng nước trong phòng vệ sinh đã ngưng. Bạch Bích bước ra. Diệp Tiêu phát hiện thấy cô có vẻ lúng túng bất an. Đương nhiên điều này cũng rất bình thường, rất nhiều người khi bị cảnh sát đến thẩm vấn đều như vậy.

Diệp Tiêu cuối cùng đi vào vấn đề chính:

– Tôi nghe nói cô và Giang Hà đã dự định tháng sau làm đám cưới phải không?

– Vâng!

Diệp Tiêu cảm thấy ánh mắt mình hình như đang khiến cho Bạch Bích sợ sệt. Anh cố làm cho ánh mắt và giọng nói hiền hoà hơn. Anh nói:

– Trong hồ sơ vụ án viết, cô đã từng khai với phía cảnh sát rằng, vào đêm Giang Hà xảy ra sự việc, cô có nhận được một cuộc điện thoại. Chúng tôi đã xác minh được đó đúng là cuộc gọi từ phòng làm việc của Giang Hà.

– Tôi sớm đã đoán vậy!

– Ừm, nói như vậy mối quan hệ giữa cô và Giang Hà phải rất tốt. Nhưng cũng đúng thôi, hai người cũng sắp kết hôn, tâm linh chắc cũng có một sự kết nối nào đó. Cô có thể kể cho tôi nghe về Giang Hà được không?

Bạch Bích tỏ ra lãnh đạm:

– Chẳng có gì để kể cả, anh ấy là người như vậy. Các anh nên sớm điều tra cho rõ vụ việc.

– Bạch Bích, cô đừng sợ, tôi chỉ đến để hỏi rõ thêm về vụ việc. Cô chỉ cần nói cho tôi nghe những gì cô biết là được rồi. – Diệp Tiêu cố gắng nói nhẹ nhàng.

– Anh ấy chưa bao giờ kết thù oán với ai, cũng không có quan hệ với những phần tử nguy hiểm của xã hội. Anh ấy không có những ham thích xấu, sức khoẻ rất tốt. Có lẽ chỉ có trời mới biết vì sao anh ấy lại xảy ra chuyện như thế.

– Trời mới biết? – Diệp Tiêu nhắc lại câu nói với vẻ ngạc nhiên.

– Hãy nói cho tôi biết, rốt cuộc là tại sao anh ấy lại chết?

– Nếu tôi biết thì giờ đã không đến đây tìm cô. Còn cụ thể thế nào thì bây giờ tôi không thể nói với cô được.

Diệp Tiêu ngừng giây lát rồi nhìn vào mắt Bạch Bích, cơ hồ như không nén nổi tình cảm, anh thầm tự trách mình, anh biết như thế có thể làm đối phương hiểu lầm, nhất là khi Bạch Bích lại là một phụ nữ trẻ đẹp như thế. Nhưng anh phải thừa nhận, đôi mắt của Bạch Bích rất có sức hấp dẫn. Anh điều chỉnh lại cảm xúc của mình rồi hỏi với giọng nghiêm túc:

– Xin lỗi, cô có thể nói cho tôi biết, trước khi Giang Hà chết, lần gặp gần đây nhất của hai người là khi nào?

– Là hôm anh ấy từ Tân Cương trở về. Tối hôm ấy, Giang Hà đã đến đây, anh ấy nói vừa xuống tàu cùng đội khảo cổ. Trông anh ấy vô cùng mệt mỏi, kiệt sức, nói năng cũng rất khó khăn. Đặc biệt là ánh mắt của anh ấy rất kỳ lạ, như đang giấu giếm tôi điều gì. Anh ấy chỉ ở lại đây một lúc rồi vội vàng về nhà, không nói điều gì đặc biệt cả. Sau đó mấy ngày, tôi có gọi cho anh ấy mấy cuộc điện thoại hẹn anh ấy nhưng anh ấy từ chối trên điện thoại, nói rằng công việc dạo này rất bận, không có chút thời gian rảnh nào cả, đợi anh ấy hết bận sẽ tính sau. Cứ như thế cho đến tận cái đêm anh ấy chết, tôi không gặp lại anh ấy nữa.

Nói xong Bạch Bích thấy đầu mình bắt đầu đau âm ỉ.

– Anh ấy nói công việc của anh ấy gần đây rất bận, thế cô có biết dạo gần đây anh ấy bận việc gì không?

– Tôi không biết! Xưa nay tôi không hỏi những chuyện có liên quan đến công việc của anh ấy. Tôi chỉ biết rằng các anh ấy đi Tân Cương để tiến hành khảo cổ ở hồ La Bố. Thời gian vừa tròn một tháng. Quãng thời gian đó, tôi không có chút tin tức gì.

Nói xong, Bạch Bích nhìn thấy Diệp Tiêu lấy bút ghi chép tất cả vào một cuốn sổ tay.

Diệp Tiêu chau mày hỏi:

– Xin lỗi, tôi vẫn còn một câu hỏi nữa muốn hỏi cô. Cô có biết Hứa An Đa, đồng nghiệp của Giang Hà không?

– Anh ấy chết rồi!

– Hoá ra cô cũng đã biết. Anh ấy bị tai nạn xe mô tô.

Diệp Tiêu đã xác nhận được việc Bạch Bích và Hứa An Đa rất quen biết nhau.

– Không. Tôi không tin cái chết của Giang Hà và Hứa An Đa chỉ là do tai nạn thường tình.

Tim Diệp Tiêu bỗng giật thót. Lời nhận xét của cô gái trước mặt anh vô tình lại rất trùng hợp với suy nghĩ của anh, nhưng anh không dễ dàng để lộ quan điểm của mình, anh tiếp tục truy hỏi:

– Tại sao cô lại nghĩ thế?

– Buổi tối mà Hứa An Đa xảy ra việc đúng là buổi tối sau khi kết thúc tang lễ của Giang Hà. Sau khi tang lễ kết thúc, anh ấy có gặp tôi nói chuyện riêng. Anh ấy bảo dạo gần đây có rất nhiều sự việc rất khó hiểu xảy ra. Tôi có hỏi anh ấy đã xảy ra chuyện gì nhưng anh ấy kiên quyết không nói. Sau đó anh ấy đi về, không ngờ, đêm đó anh ấy chết. Nhất định phải có việc gì đó chúng ta vẫn chưa biết, anh cảnh sát, anh có cho là thế không?

Diệp Tiêu gật đầu, nói:

– Cảm ơn những tin tức cô đã cung cấp. Điều này sẽ giúp ích cho chúng tôi rất nhiều, nhưng đừng gọi tôi là cảnh sát. Tôi nghe thấy không thoải mái lắm, cô cứ gọi tôi là Diệp Tiêu. Sau này chúng ta còn gặp nhau nhiều mà, cô nên chuẩn bị sẵn tư tưởng.

– Vâng, anh Diệp Tiêu.

Diệp Tiêu bỗng nhớ ra một điều gì đó:

– Ồ, xin lỗi, vừa nãy suýt nữa thì tôi quên, tôi có xem qua hồ sơ về cô. Bố cô trước đây cũng làm việc ở Viện Nghiên cứu khảo cổ nơi Giang Hà làm việc phải không? Trong tài liệu nói ông đã mất trong một vụ tai nạn giao thông năm 1988. Cô có thể nói về việc này cho tôi nghe được không? Trực giác mách bảo tôi, việc này có thể liên quan đến nhau. Tôi biết nói về chuyện này thì không hay lắm đối với cô, nếu cô cảm thấy không vui, vậy thì cô có thể không nói.

Bạch Bích ngẩng đầu, nhìn thẳng vào anh, bây giờ cô đã dám nhìn thẳng vào anh, đúng vậy, khuôn mặt quả thực rất giống Giang Hà, đặc biệt là cái cằm và viền môi, gần như tạo cho cô ảo giác là đang nói chuyện với Giang Hà. Thế nhưng vài chi tiết trên mặt vẫn có sự khác biệt, những điểm khác biệt đó hình như đang nói với cô – anh ấy không phải, không phải là người yêu của cô.

Cô gật đầu với chính mình, sau đó lạnh lùng nói:

– Không sao, vụ tai nạn năm đó có điểm rất khó hiểu, năm đó tôi mới 10 tuổi, nhưng lại nhớ rất rõ từng việc xảy ra. Hôm đó đúng vào sinh nhật lần thứ 40 của bố tôi, sau khi ông đưa tôi đến bệnh viện, trên đường trở về nhà thì xảy ra chuyện. Lúc đó, tôi và mẹ đã đi hẳn sang đường bên kia, còn bố tôi thì đột nhiên đứng yên bất động, mẹ tôi hét gọi ông thật to, nhưng ông hình như không nghe thấy gì cả, cứ đứng yên ở trên vạch dành cho người đi bộ sang đường như thể đã biến thành một bức tượng điêu khắc vậy. Đèn đỏ phía đường khác đã chuyển sang màu xanh, một chiếc xe tải quành sang, nhưng bố tôi không hề có chút phản ứng nào, và thế là đã xảy ra tai nạn.

– Thực khó mà có thể tin được, cứ như là phim điện ảnh kinh dị vậy! – Diệp Tiêu nói.

Bây giờ, Bạch Bích hình như không còn tâm lý đề phòng anh như lúc ban đầu nữa, cô bắt đầu tin tưởng người sỹ quan cảnh sát đang đứng trước mặt cô, bởi vì trong lòng cô, giờ đây đã hoàn toàn phân biệt rạch ròi giữa anh và Giang Hà rồi:

– Đến giờ tôi vẫn cảm thấy sợ hãi.

– Bởi vì hai người thân thiết nhất đều đã đột ngột rời xa?

Cô gật đầu.

– Thế còn mẹ cô?

– Bà đang sống trong bệnh viện Tâm thần, từ sau khi bố tôi mất, thần kinh của bà bắt đầu không bình thường.

– Ôi, tôi xin lỗi. Thôi được, xin cảm ơn sự phối hợp của cô, tôi nghĩ, những tin tức cô cung cấp là những manh mối rất có giá trị với chúng tôi. Xin lỗi vì đã làm phiền cô. Đây là danh thiếp của tôi. Nếu có việc gì, cô hãy gọi điện thoại cho tôi, xin cô cứ yên tâm, tôi không có ngày nghỉ đâu, bất kể ngày đêm, lúc nào tôi cũng có thể có mặt.

Nói xong, Diệp Tiêu đưa danh thiếp của mình cho Bạch Bích.

Bạch Bích nhận lấy tấm danh thiếp. Cô nghĩ lại những lời nói của Diệp Tiêu, đặc biệt là câu: “Nếu có việc gì, cô hãy gọi điện thoại cho tôi, xin cô cứ yên tâm, tôi không có ngày nghỉ đâu, bất kể ngày đêm, lúc nào tôi cũng có thể có mặt.”

Những từ ẩn ý đó như đang ngầm báo mình có thể sẽ gặp nguy hiểm, lẽ nào sau việc xảy đến với Giang Hà và Hứa An Đa, sẽ đến lượt mình chăng? Cô ngẩng đầu lên nhìn Diệp Tiêu, ánh mắt đầy lo lắng.

– Hãy tin tôi, cô sẽ không sao đâu. Tôi về đây!

Diệp Tiêu có cảm giác mình đã nắm được cục diện. Anh gật đầu chào Bạch Bích, sau đó bước ra cửa. Vừa định nói tạm biệt, anh lại quay người nói với Bạch Bích:

– À, còn việc này nữa, hôm qua lúc ở cổng Viện Nghiên cứu khảo cổ tôi có nhìn thấy cô. Tôi thấy sắc mặt cô lúc đó không được tốt lắm.

– Vâng! – Bạch Bích hơi xấu hổ.

– Cô không nên đến nơi đó nữa, hãy tin tôi, cái Viện Nghiên cứu Khảo cổ ấy có vấn đề. Cô đừng mạo hiểm đến đó!

– Anh cho rằng sẽ có người tiếp theo xảy ra chuyện sao?

– Có lẽ thế, hiện nay chẳng ai nói rõ được điều gì. Nếu như nói được rõ thì tốt quá rồi. – Diệp Tiêu tỏ ra có chút bất lực.

Anh ta cũng không nói rõ được, có lẽ sẽ còn có người phải chết, trong lòng Bạch Bích bỗng dấy lên một nỗi sợ hãi. Cô buột miệng thốt ra hai chữ:

– Lời nguyền.

– Cô vừa nói gì? Lời nguyền?

– Xin lỗi anh, tôi chỉ là suy nghĩ lung tung rồi nói bừa ấy mà. – Bạch Bích vội vã phân bua.

Diệp Tiêu lại cau mày, đưa mắt liếc nhìn ánh mắt Bạch Bích. Anh biết rằng dứt khoát lời nói của cô ấy không chỉ đơn giản như thế. Nhưng bây giờ không phải là lúc truy tìm căn nguyên của nó, anh chào Bạch Bích rồi đi ra khỏi căn nhà.

Diệp Tiêu bước nhanh xuống cầu thang, sau khi ra đến đường lớn, anh nhìn về phía ngã tư trước mặt. Trước đây mười năm, bố của Bạch Bích, ông Bạch Chính Thu không hiểu tại sao đã bị tai nạn ở chỗ này. Anh cố gắng tưởng tượng ra hiện trường lúc nãy Bạch Bích miêu tả, vừa đi anh vừa lẩm bẩm hai chữ Bạch Bích vừa thốt ra: Lời nguyền.

Bạch Bích đang đứng bên cạnh cửa sổ, lặng lẽ nhìn Diệp đang đứng trên con đường lớn dưới nhà. Cô vẫn không thể phân biệt được đó là bóng dáng của ai?

…………..

[6] Trường ca Đất hoang hay Đất hoang, tên nguyên gốc tiếng Anh là “The waste land”: tác phẩm thi ca nổi tiếng của nhà thơ T.S. Eliot người Mỹ sáng tác năm 1922. Ông từng đạt giải Nobel văn học vào năm 1948, đóng góp rất nhiều cho nền thi ca hiện đại.

[7] Gandhara: là tên một vùng miền Tây bắc Ấn Độ, ngày nay là địa danh của khu di tích lịch sử nằm giữa Pakistan và Afghanistan, là chiếc nôi Phật giáo thứ hai sau Ấn Độ, thời hoàng kim của nghệ thuật này phát triển rộng rãi từ xứ Bactria chạy dài đến Hindu Kush và Bắc Trung Ấn. Hiện nay, nghệ thuật Phật giáo Gandhara đang ngày càng quen thuộc với người phương Tây.

[8] Marc Aurel Stein: (1862-1943): nhà thám hiểm nổi tiếng người Anh, gốc Hungary.

[9] Chữ Elamite: một loại chữ cổ, ra đời dựa trên sự phát triển của dạng chữ tiền Elamite, đến nay, con người vẫn chưa giải mã được loại chữ này. Một số tài liệu gọi là ký tự Elamite. Loại nguyên thủy nhất của dạng chữ này xuất hiện có lẽ từ 3.200 năm TCN và trở thành có hàng lối vào cuối thiên niên kỷ 3 TCN.

[10] Vương triều Achaemenid: là triều đại đầu tiên của đế quốc Ba Tư cổ (nay là Iran), tồn tại từ năm 551 TCN đến năm 328 TCN.

[11] Đế quốc Kushan: tồn tại từ thế kỉ thứ 1 đến thế kỉ 3 sau Công nguyên, trải dài từ Tajikistan đến biển Caspian và Afghanistan, cho mãi đến thung lũng sông Ganges. Trong nhiều thế kỷ, đế quốc này là trung tâm giao dịch giữa Đông và Tây.

[12] Tiếng Arya: là ngôn ngữ của chủng tộc người Arya, một trong hai chủng tộc chính của người Ấn Độ hiện nay. Chủng tộc Arya thuộc đại chủng Europeoid khoảng từ thiên niên kỷ thứ hai đến giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên đã từ bỏ mảnh đất nguyên thủy ở phía Đông biển Caspienne tiến xuống phương Nam, vượt Hymalaya, theo sông Ấn vào định cư ở vùng Punjab. Arya (có nghĩa “quý phái”) là từ họ dùng để tự chỉ mình, những người da trắng, vóc cao, mũi thẳng, phân biệt với những cư dân bản địa mà họ gọi là Dasa (“nô lệ”). Người Arya nhanh chóng chiếm toàn bộ Bắc Ấn, dồn các cư dân bản địa xuống Deccan hay các núi non, đầm lầy Trung Ấn và Bengal. Họ cũng nhanh chóng từ giã cuộc sống du mục, định cư trên các đồng bằng trù phú, sống bằng nghề nông. Họ mang vào Ấn Độ nền văn hoá phát triển cao của họ, ngôn ngữ và văn chương, thần thoại và tôn giáo, trí tưởng tượng và tinh thần ham nghiên cứu… Và thế là đã diễn ra cuộc giao thoa văn hoá vĩ đại đầu tiên trong lịch sử giữa Arya và Dravida tạo ra bước tiến mới cho nền văn minh Ấn Độ.

[13] Peshawar: tên cũ là Purushapura, xưa là thủ đô của đế quốc Kushan dưới thời vua Kanishka; nay là một thành phố ở phía Tây bắc Pakistan.

[14] Cao nguyên Pamir: là cao nguyên nằm ở phía Tây nam, Tân Cương, Trung Quốc, là vùng giao giữa phía Bắc Afghanistan vàTajikistan, nằm trên độ cao 5000 m so với mặt nước biển, cao thứ hai thế giới, chỉ sau Hymalaya.

[15] Lòng chảo Tarim: là thung lũng lớn nhất của Trung Quốc, nằm ở phía Nam Tân Cương, ở giữa núi Thiên Sơn và Côn Lôn, diện tích khoảng 53,000 m2, cách mặt nước biển khoảng 1000 m.

[16] Sơ Lặc, Vu Điền, Qui Từ: tên các quốc gia cổ ở vùng Tây vực, cùng thời với Lâu Lan.