Chương 6

Hồn Hoang Xác Ảo

Đăng vào: 2 năm trước

.

19

Jessica quan sát trong khi Kevin tìm bằng Google™ trước. Hai bàn tay nhỏ bé của anh gõ vào cái tên Garland Daniels và công cụ tìm kiếm tuyệt vời này cho ra hơn cả ngàn kết quả – chủ yếu là vì anh quên bỏ tên vào dấu ngoặc kép, sẽ giúp khoanh vùng tìm kiếm những trang có cả hai từ Garland và Daniels. Thay vì vậy, kết quả cho ra mọi thứ liên quan đến Garland[*], rất nhiều trong số đó dính tới hoa, và Daniels, cũng bao gồm đủ thứ từ rượu whiskey tới một phát thanh viên tên Faith.

[*] Garland: có nghĩa là vòng hoa.

Trong khi anh kéo trang kết quả xuống, Jessica cố gắng chấp nhận khái niệm rằng bên trong cơ thể và trí não một thằng bé mười tuổi là một giáo viên khoa học trưởng thành. Nhưng dù cố đến cỡ nào, thì cô cũng không thể chấp nhận khuôn mặt bé con và giọng nói chưa vỡ tiếng.

Con trỏ chuột dừng ở một trang viết hình như là bài báo liên quan đến Garland Daniels.

Kevin/Paul nhấp mở trang viết và vào một bài báo của tờ San Francisco Chronicle về một vụ đấu súng băng đảng ở khu Chinatown khiến một người trong tình trạng nguy kịch, một người qua đường vô tội tên là Garland Daniels. Ông Daniels được nhanh chóng đưa đến bệnh viện San Francisco Memorial với một vết đạn phía sau đầu.

“Một nạn nhân của cuộc đấu súng?” Jessica hỏi khi đang đọc từ sau vai anh.

“Kiếm thêm một vài bài nữa nào,” Kevin/Paul nói.

Anh nhấp vào một bài khác, là một bài báo khác cũng của cùng tờ đó nhưng số ra ba ngày sau. Tiêu đề bên trên là, “Vụ Đấu Súng Giành Địa Bàn Đã Có Thể Được Ngăn Chặn”. Bài báo viết có một đặc vụ DEA chìm có mặt tại hiện trường và lẽ ra đã có thể cảnh báo Daniels, hoặc bằng cách nào đó lộ nhân dạng để ngăn chặn hoàn toàn vụ bắn nhau. Cũng theo bài viết thì hình như viên đạn trúng Daniels là từ súng của viên đặc vụ đó.

Cơ quan DEA không có bình luận gì.

Bài báo thứ ba kể lại một cuộc phẫu thuật tinh vi đã diễn ra để lấy viên đạn khỏi não bộ Garland Daniels, một cuộc phẫu thuật đã khiến anh Daniels bị liệt từ cổ trở xuống.

“Lạy Chúa lòng lành!” Kevin/Paul kêu lên.

“Hắn đang trong bệnh viện hả?”

“Hãy gọi danh bạ. Tôi muốn cô gọi cho bệnh viện và xác minh xem Garland Daniels có còn là bệnh nhân ở đó không, nếu có, thì cố liên hệ với phòng bệnh của hắn ta.”

“Nhưng, nếu đó đúng là hắn, ờ thì, có nhớ những gì hắn nói không? Lời cảnh báo của hắn?”

“Cô có cách nào khác không?”

“Không.”

“Vậy làm vậy đi.”

Anh nhìn Jessica và cô thì run rẩy.

“Được rồi. Đưa tôi điện thoại. Tôi sẽ gọi.”

“Không. Khoan đã. Hãy bàn bạc chuyện này đã,” Jessica van nài.

“Nghe nè,” Kevin/Paul nói trong khi bước tới, đặt tay lên vai cô. “Tôi biết chuyện này làm cô sợ. Nhưng chúng ta phải làm gì đó và trước khi chúng ta làm bất cứ chuyện gì, chúng ta phải hiểu mình đang đối phó với cái gì.”

“Nhưng hắn cảnh báo anh là sẽ giết nếu chúng ta tìm cách ngăn hắn lại.”

“Tôi biết. Nhưng không có nghĩa hắn sẽ làm được. Hơn nữa, nếu chúng ta bắt đầu chuyện này và tôi nhận được lời cảnh báo nữa, thì điều đó sẽ chỉ ra kẻ mà chúng ta đang lần theo.”

Jessica thở phào bằng miệng, thò tay vào ví và lấy điện thoại di động ra. Cô đưa cho anh ta.

Kevin/Paul gọi tổng đài. “Bệnh viện San Francisco Memorial. Ở San Francisco. California. Cám ơn.” Anh chờ một chút. “Làm ơn, nối máy cho tôi. Vâng. Xin chào. Tôi muốn liên lạc với Garland Daniels. Tôi tin rằng anh ta là bệnh nhân ở đây. À ha. Khi nào. Vài tiếng trước à. Không. Cám ơn.”

Kevin/Paul cúp máy và đưa trả điện thoại cho Jessica.

“Sao?” cô hỏi.

“Garland Daniels rơi vào hôn mê lúc 7 giờ 30 chiều. Theo giờ bờ Thái Bình Dương.”

“Hắn ta đang hôn mê hả?”

“Hẳn chuyện xảy ra khi hắn nhập vào cơ thể tôi.” Kevin/Paul nói. “Lúc đó là khoảng tám giờ rưỡi ở Kingsville, Texas.”

“Đợi đã. Anh nói là khi Garland nhập vào xác anh, thì không ai bắt đầu kiểm soát cơ thể của hắn hết sao?”

“Có lẽ là đúng vậy,” Kevin/Paul nói, nhìn Jessica và bắt đầu bước quanh phòng.

“Sao?” Jessica hỏi.

“Sao cái gì?” Kevin/Paul nói.

“Hắn có liên lạc lại với anh chưa?”

“Chưa.”

“Vậy có thể đó là người nào khác.”

“Đợi đã,” Kevin/Paul nói, mặt anh hiện lên vẻ bối rối. Anh bước tới tivi và mở trở lại.

“Cái gì?” Jessica hỏi.

“Hắn vừa bảo tôi bật tivi lên.”

Khi hình hiện lên, họ có thể thấy tay phóng viên đối diện máy quay. Quang cảnh phía sau, tay hiệu trưởng, tiến sĩ Rathbone, trông phờ phạc và sợ hãi, đang được dẫn tới xe cấp cứu.

“Chúng tôi nhận được tin là hiệu trưởng đã được thả,” phóng viên nói. “Chưa có bình luận gì về động cơ thúc đẩy Paul Freeman bắt ông ta làm con tin.”

Có người ra hiệu và tay phóng viên quay người và nhìn thấy tiến sĩ Rathbone phía sau mình. Anh chạy thẳng đến chỗ ông hiệu trưởng, kéo tay quay phim theo sau. Ngay khi tới chỗ ông hiệu trưởng, tay phóng viên chĩa micrô thẳng vào mặt tiến sĩ Rathbone.

“Tiến sĩ Rathbone. Tại sao Paul Freeman lại bắt ông làm con tin?”

“Paul Freeman bị quỷ ám,” tiến sĩ Rathbone gầm lên, giằng lấy micrô khỏi tay phóng viên. “Bị quỷ ám, cho các người biết.”

Tay phóng viên truyền hình giành lại micrô.

“Ông nói vậy là sao?”

Tay phóng viên chĩa micrô về phía tiến sĩ Rathbone.

“Anh ta có thể di chuyển đồ vật,” ông hiệu trưởng nói. “Ý tôi là chỉ cần nhìn thôi là được. Và lửa nữa. Anh ta có thể gây ngọn lửa.”

Phóng viên truyền hình cười chế giễu và xoay tròn mắt không tin. “Đúng rồi. Rất đậm chất Stephen King. Sao anh ta lại thả ông?”

“Anh ta nói không muốn phí khả năng của mình cho những mục tiêu không cần thiết.”

“Ý ông là ông không phải mục tiêu thực sự của hắn. Chúng tôi cho rằng anh ta giận dữ vì bị ông sa thải.”

“Ban đầu, tôi cũng nghĩ vậy,” tiến sĩ Rathbone. “Nhưng anh ta cư xử cứ như không biết tôi là ai. Thực ra thì, anh ta nói tôi chỉ là một cuộc tập dợt.”

“Tập dợt hả? Tập cho cái gì?”

“Tôi không biết. Tôi chỉ có thể nói đó không phải là Paul Freeman mà tôi biết. Có chuyện gì đó đã khiến anh ta nổi điên. Kẻ đã làm những chuyện vừa qua với tôi là một con quái vật.”

“Nhưng rồi hắn thả ông ra,” phóng viên nói. “Hắn có nói sẽ đi đâu không?”

“Không. Tôi chỉ mong là đâu đó xa nơi này.”

Kevin/Paul quay khỏi màn hình tivi và đi về phía máy tính. Anh đọc bài báo trên màn hình. “Hắn ta đến San Francisco.”

“Bằng cách nào? Hắn đang ở Kingsville, Texas mà,” Jessica nói. “Làm sao hắn có thể xoay xở để tới được San Francisco? Cảm ơn tin truyền hình cáp là mặt hắn giờ đây đã được chiếu trên khắp cả nước.”

“Thực ra thì, đó là mặt của tôi lên truyền hình cả nước,” Kevin/Paul nói. “Tôi vẫn có cảm giác hắn sẽ nghĩ ra cách để đi.”

“Được rồi. Tại sao lại là San Francisco?”

“Trả thù,” Kevin/Paul trả lời khi Jessica nhìn vào màn hình máy tính qua vai anh, giờ đây đã hiện lên bài báo khác tựa đề: “Thiên Tài Máy Tính Bị Liệt Trong Cuộc Đọ Súng Giữa Các Băng Đảng”.

20

Tại nhà sửa chữa máy bay ở phi trường Kingsville, một chiếc máy bay tư nhân chuẩn bị cất cánh. Chiếc xe bồn chở xăng đã tiếp nhiên liệu xong và những người chở hành lý đóng khoang hành lý rồi khóa kín lại.

Ở buồng lái, viên phi công và phụ lái đã hoàn tất kiểm tra trước khi cất cánh và đợi chủ máy bay, một doanh nhân dầu mỏ Texas, đến.

“Nếu hắn không đến sớm thì chúng ta chắc phải điền thêm một hồ sơ lịch trình bay khác đó,” viên phi công nói.

“Anh biết Crenshaw mà. Hắn cho rằng mọi người trên thế giới sẽ chờ hắn, cho dù hắn trễ cỡ nào,” viên phụ lái nói. Họ cảm thấy chiếc máy bay lúc lắc như có người vừa bước lên. “Cuối cùng cũng tới.”

Cửa buồng lái mở ra và một gã lạ mặt bước vào.

“Mày là thằng khỉ nào?” viên phi công nạt.

“Tên tao là Garland. Tụi bay có thể nghỉ ca tối nay.”

“Cái gì?”

Paul/Garland mỗi tay cầm một chiếc khăn tay tẩm thuốc mê. Đứng giữa viên phi công và phụ lái, hắn bịt mặt từng người bằng chiếc khăn và giữ chặt cho đến khi cả hai đều bất tỉnh. Rồi hắn kéo họ ra khỏi chỗ ngồi, lôi họ ra đằng sau máy bay trước khi quay lại buồng lái, đóng cửa máy bay và tiếp tục theo chỉ dẫn cất cánh. Hắn có dư thời gian để chạy đà trên đường băng cất cánh nhằm giữ lịch trình bay báo cáo đúng với tháp chỉ huy.

Ngay khi cất cánh và đạt được cao độ, hắn điện báo có thay đổi trong kế hoạch và yêu cầu đường bay và chỗ đáp ở cả sân bay Quốc tế San Francisco hoặc sân bay Oakland, miễn là cái nào tiện hơn.

Khi máy bay đã bay tới địa điểm mới, và chuyển sang chế độ lái tự động, Paul/Garland trở lại với viên phi công và phụ lái. Hắn nhanh chóng trói và bịt miệng cả hai người, đề phòng trường hợp bọn họ tỉnh dậy giữa chừng, rồi yên chí cho một chuyến đi yên tĩnh và bình lặng về ngôi nhà ở Thành phố Vịnh. Nhà và báo thù.

Kevin/Paul và Jessica quay trở lại màn hình, đăng nhập vào trò Cybersona.

“Tôi cần biết thêm về cái mình đang đối phó,” Kevin/Paul nói. “Tiến sĩ Rathbone nói hắn có vài siêu năng lực. Hẳn là hắn đã xây dựng nó trong Cybersona. Hình như, hắn đã cho mình một số quyền năng chắc thắng. Điều khiển ý nghĩ, đọc suy nghĩ, di chuyển đồ vật từ xa.”

“Ý anh là hắn có thể dùng ý nghĩ đốt cháy đồ vật và đại loại vậy hả?”

“Ừ.”

“Ồ. Còn anh, anh biết đó, có siêu năng nào không?”

“Siêu năng của tôi thì hơi khác.”

“Khác hả. Khác thế nào? Anh có đốt cháy mọi vật được không?”

“Được, nhưng không phải bằng ý nghĩ.”

“Ồ. Vậy anh làm được gì?”

Kevin/Paul trở nên hơi ngượng ngập. “Tôi có thể cho cô biết nguyên tắc của quá trình tổng hợp hạt nhân. Tôi cũng có thể nghĩ ra vài câu bắt chuyện hay hay.”

“Câu bắt chuyện?”

“Nghe nè. Rõ ràng là hắn giỏi hơn tôi trong những chuyện như vậy. Tôi thậm chí không biết hắn có thể tạo ra những thứ kiểu như kiểm soát đầu óc và nhập.”

“Hay thật,” cô nói, khổ sở.

“Tôi có kế hoạch này,” Kevin/Paul nói.

“Anh có kế hoạch?”

“Tôi đang lên một kế hoạch.”

“Là gì vậy?”

“Kevin.”

“Kevin là kế hoạch của anh?”

“Tôi đang nghĩ vậy nè. Garland chiếm cơ thể tôi.”

“Cơ thể Paul Freeman,” Jessica nói.

“Đúng. Và tôi, Paul Freeman, tôi đã chiếm cơ thể Kevin.”

“Người mà, theo anh, đang lạc đâu đó trong thế giới ảo.”

“Không hẳn là lạc,” Kevin/Paul nói. “Cậu ta vẫn ở trong trò Cybersona.”

“Và làm sao chuyện này thành công được nữa?” Jessica hỏi.

“Nhân vật ảo của cậu bé, nhân vật mà cậu ta tạo trong trò Cybersona, tồn tại bên trong trò chơi, cũng như nhân vật của tôi, và của Garland.”

“Vậy sao tôi không thể thấy thằng bé nữa?”

“Tôi không chắc. Chờ đã. Thằng bé kìa. Cậu ta đang trốn.”

Kevin/Paul gõ dòng chữ, “Kevin. Tôi trở lại rồi đây.”

“Thằng bé tội nghiệp.”

“Tôi hy vọng là thằng bé tội nghiệp đó có thể giúp chúng ta.”

“Bằng cách nào?”

“Bằng cách nhập vào cơ thể của Garland Daniels.”

“Có thành công không?”

“Tôi không biết. Tôi thậm chí còn không biết thằng bé có thể lần ra được hắn ta không.”

“Vả lại, hắn ta bị liệt, nhớ không? Ngay cả khi anh ta vào được cơ thể hắn, thì anh ta có thể làm được gì nè?” Jessica hỏi.

“Đây là một kế hoạch đang hình thành.”

“Ý anh là anh chưa phác họa xong kế hoạch này à.”

“Đúng. Tôi nghĩ chúng ta phải đến San Francisco.”

“Tụi mình sẽ làm gì ở đó?”

“Tôi không biết. Tôi sẽ nghĩ ra khi chúng ta đến đó. Nhưng nếu đó là nơi Garland chiếm cơ thể tôi, thì đó là nơi tôi muốn đến.”

21

“Thử liên lạc với mẹ anh lần nữa xem,” Jessica nói khi lái về phía bắc trên đường California 101, giữ tốc độ khoảng gần 75 dặm/giờ.

“Mẹ tôi?”

“Mẹ Kevin.”

“Bà ấy vẫn không bắt máy,” Kevin/Paul nói.

“Có thể người thích hợp là gã này.”

“Người nào?”

“Người sẽ đánh cắp trái tim bà và kéo bà ra khỏi cảnh khốn khổ.”

“Bà ly dị rồi hả?”

“Đúng… vậy,” cô nói, kéo dài giọng ra, như một cô tuổi teen.

“Bao lâu rồi?” Kevin/Paul hỏi.

“Tới giờ này là năm năm rồi. Chưa thấy ai chọn đàn ông tệ như bà này. Không phải là một bà mẹ độc thân thì có thể kén chọn, nhưng trời ơi! Vài người bà tiến được gần tới hôn nhân thì thuộc loại tôi chắc không bao giờ phí thời gian cho họ. Có một tay, ông ta làm ở nhà xác. Và cho dù ổng có dùng bao nhiêu nước hoa và nước thơm cạo râu đi nữa, thì anh vẫn nghe mùi thuốc ướp xác bốc ra. Rồi, có một thằng cha cảnh sát tuần tra xa lộ không bao giờ chịu rời khẩu súng của mình, ngay cả khi lên giường. Nhưng thằng cha mà bà ta hẹn hò tối nay có vẻ được. Không phải gu của tôi, nhưng cũng không phải loại thối tha. Thực ra thì, ông ta hao hao giống cha anh, ý tôi là cha Kevin, ngoại trừ cặp mắt láo liên.”

“Bây giờ quá nửa đêm rồi,” Kevin/Paul nói. “Chắc bà ta qua đêm với ông đó.”

“Lẽ ra bà ta phải gọi báo. Tôi kiểm tra rồi. Không có tin nhắn. Không, bà ta sắp về nhà, thấy chúng ta đi mất và rồi bà ta sẽ giết tôi. Tôi phải bịa ra chuyện gì đó ngay. Tôi biết rồi. Tôi phải đi giúp một người bạn bị bệnh.”

“Ở San Francisco hả?”

“Ừ. Được rồi. Anh chẳng phải thông minh lắm sao. Anh nghĩ ra gì đó đi.”

“Được rồi. Bạn của cô đang đi công việc tới San Francisco thì bị cướp và cần giúp đỡ để quay về. Cô ấy không còn tiền bạc hay giấy căn cước. Cô là người bạn duy nhất của cô ấy. Cô ấy không thể trông cậy vào ai. Cô phải mang Kevin theo vì mẹ cậu ta đi về trễ quá. Hãy nói vậy với bà ta.”

Jessica liếc nhìn Kevin/Paul. “Ồ, anh hay thật.”

Lúc Paul/Garland đáp xuống bãi đáp máy bay riêng ở sân bay tư nhân San Francisco International thì mới một giờ sáng. Hắn bắt một chiếc taxi vào thành phố và xuống ở góc đường Market và Powell. Hắn gấp gáp bắt xe điện. Hắn chưa đi xe điện trở lại từ sau vụ bắn nhau. Chuyến cuối cùng trong đêm đang chuẩn bị rời bến đến bến tàu Fisherman’s Wharf.

Hắn chọn chỗ ngồi gần lối đi, lên xe cùng khoảng năm sáu hành khách khác, hầu hết là du khách. Garland nghĩ đến chuyện anh đã nhớ kiểu chuyên chở cổ xưa này đến thế nào. Hầu hết dân San Francisco cho rằng xe điện là thứ chỉ có du khách mới đi. Nhưng với Garland, thì còn hơn thế nữa. Trên chính chuyến xe điện California này hai mùa hè trước hắn đã hôn Suzy lần đầu tiên. Ký ức đó khiến Garland nhói tim, khiến mắt Paul Freeman nhòe đi. Cảm nhận một nỗi xúc động bằng cơ thể người khác thì thật kỳ lạ. Chính suy nghĩ của hắn đã gây nên những chuyển biến sinh/hóa lý khiến đôi mắt của cơ thể này ứa lệ. Nhưng trong quá trình đó, Garland hoàn toàn nhận thức được sự liên hệ hồn-xác, chuyện thường tự nhiên xảy đến khi hắn còn sở hữu cơ thể mình. Hắn nhanh chóng xua đi ý nghĩ đó và khịt mũi ngăn nước mắt trào tiếp. Đôi mắt khô đi ngay khi tâm trí tập trung vào nhiệm vụ.

Khi toa xe điện đến ngã tư Stockton và Powell, Paul/Garland nhảy xuống, và đi bộ đến phố Grant và khu Chinatown.

Raymond Lee muốn về nhà và ngủ trên giường mình, hút vài điếu, xem vài bộ phim hành động ngớ ngẩn trên truyền hình vệ tinh, và ngủ suốt một tuần. Thay vì vậy, gã phải trông chừng đám đàn em, hầu hết sống ở câu lạc bộ thể thao. Kể từ sau vụ âm mưu xâm chiếm khu Chinatown của tụi Mỹ Latinh, băng đảng đang gặp nguy hiểm. Nhiệm vụ của một đại ca như Raymond là giữ cho băng đảng an toàn và kích động đúng mức.

Bọn này sẽ trả đũa vào lúc thích hợp. Nhưng với số lượng xe cảnh sát tuần tra tăng gấp đôi trong khu vực nổi tiếng dính líu đến băng đảng, thì đây không phải lúc.

Đến giờ, vài thằng vẫn nói đến chuyện tự ý ra ngoài và truy tìm cứ địa của những băng khác. Đó là lý do tại sao Raymond tự phân công mình ở lại câu lạc bộ 24/7, để chắc rằng không thằng nào làm chuyện dại dột.

Đã gần hai giờ sáng và gã chuẩn bị chọn người thức canh chừng qua đêm để gã có thể ngủ một chút. Gã nhìn đám đàn em xung quanh. Thằng thì đánh bài, thằng thì lau chùi vũ khí, và đám còn lại chỉ đi tới đi lui. Còi báo động một chiếc xe kêu inh ỏi gần đó.

“Ê Raymond,” Jimmy Wong nói. “Nghe tiếng giống xe mày kìa.”

Raymond nhìn ra cửa. “Chó thiệt.” Hắn chạy ra ngoài hẻm. Chiếc BMW đen mới của gã đang nhá đèn và kêu. Gã bước đến bên ghế tài xế và thấy cửa kiếng bên hông đã bị đập nát từ bên ngoài. Gã thò tay vào trong và tắt báo động. Lúc đó gã nhìn thấy cái khăn choàng carô.

Gã cầm cái khăn lên và bước trở vào trong.

“Có đứa muốn chơi tụi mình,” Raymond nói.

Một thằng trong sòng bài nhìn lên. “Chuyện gì vậy, đại ca?”

“Đây mới là chuyện nè,” gã nói, đập cái khăn lên bàn.

“Tụi Mỹ Latinh.”

“Không. Đây không phải kiểu của tụi nó. Đây là giỡn mặt. Tụi Mỹ Latinh không giỡn mặt. Tụi nó kéo tới, cho nổ tung xe tao, rồi xả súng. Đây là thằng nào đó kiếm chuyện với tụi mình.”

“Thằng nào khùng vậy?” Jimmy Wong nói.

Cách vài khu nhà và cả một thế giới khác ở nam San Francisco, tụi Mỹ Latinh tụ tập ở góc phố ưa thích. Tụi nó đều quấn khăn carô.

“Tụi bây, mình cần xe mới,” một thằng lên tiếng.

“Anh họ tao đang thu xếp cho anh em một thứ rất bảnh,” thằng đại ca nói, tên là Octavio Cruz. “Thứ Tư tới là xong.”

“Nó có cái gì cho tụi mình?”

“Nó có một chiếc Range Rover, nhưng nó độ lại thành gầm thấp.”

“Trời, nghe không ổn chút nào.”

“Nói rõ hơn coi.”

“Tao chưa có ý kiến,” Octavio nói.

“Người ta cười mình chết đó.”

Ngay lúc đó một chiếc taxi chạy tới, cửa sau mở ra, và một thanh niên mặc đồ giống tụi băng đảng ở góc phố đó lăn xuống mặt đường. Chiếc taxi tăng tốc chạy mất.

Octavio nhìn thằng bị đánh bầm dập đó và nhận ra mình biết nó. “Ê Chino, thằng Raphael nè.”

“Ôi không.”

Bọn chúng bu lại xung quanh thằng đồng bọn. “Nó bị thằng nào đánh nặng thiệt.”

“Mình phải đưa nó tới bệnh viện.”

Octavio quỳ xuống và kiểm tra xem thằng này còn sống không. Rồi y nhìn cổ thằng bạn và thấy mất chiếc khăn choàng ca rô. Raphael bắt đầu tỉnh lại.

“Thằng nào làm?” Octavio hỏi.

“Tao không thấy mặt. Nó đánh lén tao.”

“Nó chỉ tới rồi đánh mày thôi.”

“Nó nói có lời muốn nhắn.”

“Nhắn gì?”

“Tới công viên Golden Gate. Ba giờ sáng.”

Có một lá bài từ túi áo khoác của Raphael lòi ra.

Octavio móc lá bài ra. Trên đó một mặt có mấy ký tự tiếng Hoa và mặt kia bằng tiếng Anh. Trong đó ghi: “Dấu ấn của Quái vật.”

Octavio giận dữ nhìn lá bài.

“Tụi nó muốn chiến tranh thì sẽ có chiến tranh.”

Trên mái của tòa nhà ngay bên kia đường, Paul/Garland quan sát lúc bọn Mỹ Latinh chăm sóc thằng bạn bị thương và chuẩn bị cuộc chiến. Hắn nhìn đồng hồ và lẩn vào bóng tối.

22

Nửa chừng đường lên đồi Telegraph, một chiếc taxi tấp vào rồi dừng lại trước một tòa nhà chung cư bốn tầng. Những căn hộ kép rải khắp sườn đồi Telegraph nên mỗi bên có một góc nhìn ngoạn mục xuống thành phố, khu vịnh, và chiếc cầu nối với Oakland. Cửa sau của chiếc taxi mở ra và Suzy bước xuống, theo sau là một anh chàng trong chiếc áo len cổ lọ.

Paul/Garland theo dõi từ lối đi khuất trong tối bên kia đường. Họ bước tới lối vào tòa nhà và dừng lại trước cửa. “Ôi Suzy, đừng cho hắn vào,” Paul/Garland thì thầm với chính mình.

Suzy lấy chùm chìa khóa ra và quay lại anh chàng đang hăm hở nọ. Cô nhón chân lên và hôn nhẹ lên môi anh chàng, rồi đút chìa vào ổ và đi vào, một mình. Chàng trai đợi tới khi cô vào trong rồi mới quay bước xuống đường, vẻ thất vọng hiện rõ trên mặt.

Paul/Garland đợi đến khi anh chàng đi khỏi và đường vắng vẻ. Nhìn sang hai bên để chắc, hắn lướt ra khỏi lối đi và băng qua đường tới tòa chung cư của Suzy. Ánh sáng hắt ra từ một căn hộ ở góc và hắn nhìn lên. Đó là phòng ngủ của cô. Đột nhiên hắn nhận ra thật sai lầm khi đến đây. Lúc này là quá sớm. Và hắn còn nhiều nhiệm vụ phải thực hiện trước khi cho phép mình xao lãng như vậy. Suzy phải đợi thôi. Nhưng không lâu đâu. Những gì hắn phải làm không tốn nhiều thời gian.

Kevin/Paul thức dậy khi chiếc xe tấp vào lề dừng lại. Anh nhìn lên và thấy họ đã dừng lại ở Nhà nghỉ xa lộ số 6.

“Tôi phải ngủ,” Jessica nói, che miệng ngáp.

“Tôi sẽ vào mướn phòng cho tụi mình,” Kevin/Paul đề nghị.

Jessica cười với cậu bé. “À. Tôi không nghĩ vậy. Nhưng chuyện anh phải làm tiếp theo là gọi lại cho mẹ Kevin và cho bà biết anh, hay đúng hơn, cậu ta vẫn bình an.”

“Nếu lỡ bà ta vẫn chưa về nhà thì sao?”

“Gọi cho bà ta đi, được không? Trước khi tôi bị bắt vì tội bắt cóc. Tôi sẽ đi mướn phòng.”

Jessica nhấn nút gọi nhanh và đưa điện thoại cho Kevin/Paul.

Công viên Golden Gate gần như không còn ai khi sương mù dày đặc kéo đến, bao phủ những đồi cỏ bằng một màn sương trắng ẩm ướt. Hầu hết những người vô gia cư đã tụ tập ở khu đồi đất, dựa vào số đông, bỏ phần còn lại của công viên cho bọn săn mồi và con mồi.

Băng Mỹ Latinh xuất hiện từ trong đám sương mù trên mô tô, trang bị súng, dao, và một lô vũ khí tự chế. Chúng quay thành vòng tròn ở một bên đồi, rồ máy, thổi tung từng đám cỏ và đất ướt. Tiếng rú động cơ càng lớn hơn khi những chiếc mô tô chạy vòng quanh như những con ma trong sương mù. Sau vài vòng, tên đại ca, Octavio Cruz, giơ tay lên, ra hiệu cho đàn em dừng lại sau lưng, rồi hạ tay xuống, muốn bọn chúng tắt động cơ. Chúng đứng đó trong khi sương mù bay xung quanh.

Octavio chuyển khẩu súng sang chế độ tự động và đợi, lắng nghe trong im lặng. Phía bên phải một bóng người xuất hiện từ trong sương mù. Octavio nhắm vào bóng người và nổ một phát bắn. Bọn chúng chờ đợi và theo dõi. Rồi, từ trong sương mù, xuất hiện một chiếc mô tô không có người lái. Máy đã tắt, nhưng chiếc xe lăn ra khỏi sương mù như là nhờ có trớn và dừng trước tên đại ca trước khi ngã sang một bên.

Octavio nhìn chằm chằm vào chiếc xe ngã đó, cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của nó, khi đó một thằng trong băng bước lên cạnh hắn.

“Ê. Xe của thằng Chino phải không?”

“Chó chết!”

Một bóng người xuất hiện trong sương mù phía sau Octavio. Một thằng trong băng gật đầu và Octavio quay lại khi Paul/Garland bước ra từ sương mù.

“Mày là thằng chó nào?” Octavio Cruz hỏi gằn.

“Mày không nhận được danh thiếp của tao hả?” Paul/Garland hỏi. “Chắc chắn là tao có gởi cho tụi mày mà.”

Octavio trông bối rối, rồi móc túi và lôi ra một lá bài trên đó ghi: “Dấu ấn của Quái vật.” Y nhìn lá bài rồi ngước lên Paul/Garland.

“Cái này của mày?” y hỏi.

“Đúng vậy,” Paul/Garland cười. “Tao là Quái vật.”

Nghe vậy, môi Octavio cong lại thành một nụ cười khi y nhìn tụi đàn em trong băng. “Dios Mio,” y nói. “Hôm nay trăng có tròn không mày?”

“Hôm nay không có trăng,” tên đàn em trả lời.

“Không có hả,” thằng đại ca lặp lại. “Vậy. Tụi mình có cái thứ gì đây? Cái này có phải người ta gọi là tự tử bằng bị đánh hội đồng không? Mày có đại loại ước muốn gì trước khi chết không?”

“Tao thì không,” Paul/Garland nói. “Nhưng mày thì chắc chắn là có đó.”

“Mày điên hả, thôi mà?”

“Không. Chỉ bực mình thôi.” Cùng với câu nói đó Paul/Garland phóng một quả cầu lửa vào người Octavio, y phản ứng bằng cách bắn ra một loạt đạn nữa, chỉ có điều những phát súng bay lung tung vì lửa đã nuốt chửng bàn tay y, bàn tay cầm súng. Bọn còn lại trong băng nhìn y chằm chằm kinh ngạc khi y buông rơi khẩu súng, gào thét, ngã lăn xuống đất, cố dập tắt ngọn lửa. Y vùi bàn tay đang cháy vào đám cỏ ướt để dập bớt lửa. Paul/Garland quay sang những thằng còn lại.

“Tụi bay khôn hồn thì cút đi,” hắn nạt.

Ở tay kia, Paul/Garland đang cầm một quả cầu lửa khác, và chuẩn bị ném thì bọn chúng bỏ vũ khí và biến mất vào màn đêm, bỏ tên đại ca bốc khói và vẫn cháy âm ỉ trên cỏ.

Paul/Garland tiến đến thằng đại ca.

“Mày phế tay tao rồi,” Octavio Cruz gào lên.

“Câm họng,” Paul/Garland nói khi quỳ xuống cạnh hắn. “Chỉ được nghe tao nói. Tao sẽ cho mày lựa chọn. Điều mà mày không cho tao khi mày nổ súng trên đường ở khu Chinatown. Đây nè. Mày có thể chết ở đây, hoặc tao sẽ gọi cảnh sát và người ta sẽ cho mày vào bệnh viện. Chớp mắt một cái nếu muốn sống, hai cái nếu muốn chết.”

Thằng đại ca chớp mắt một cái.

“Chọn khôn lắm,” Paul/Garland nói, trong khi lôi cái điện thoại ra và nhấn 911.

“A lô,” Paul/Garland nói. “Có một người bị bỏng nặng gần khu Japanese Tea Garden trong công viên Golden Gate. Hắn cần giúp đỡ.”

Hắn bấm tắt điện thoại và nhìn xuống thằng đại ca đang nằm. “Chỉ cần nằm đây. Sẽ có người đi qua giúp đỡ.”

Octavio Cruz trợn mắt nhìn theo khi Paul/Garland bước vào đám sương mù.