Chương 9: Đầu người trên bậc thang (nửa chương cuối)

Hà Thần

Đăng vào: 2 năm trước

.

Năm

Ngư Tứ Nhi quả thực không thể tin được vào mắt của mình nữa, đánh chết y cũng không đoán ra được con khỉ ngựa này định làm gì, ở chỗ đó có thể moi móc ra cái gì chứ, đào cái con b cũng không có á?

Lúc bấy giờ y đã thấy con khỉ ngựa lôi từ giữa hai chân cô vợ ra một thai nhi đầm đìa máu. Đã đến tháng thứ tám chín, thai nhi đã thành hình rồi. Khi bị moi ra, hai cái chân nhỏ xíu vẫn còn động đậy.

Con khỉ ngựa giơ cái thai nhi lên cọ đi cọ lại lên mặt, giống như moi ra được bảo bối vậy, yêu thích đến mức quên hết cả xung quanh. Sau khi chơi đùa một lúc, nó bắt đầu há miệng mút thỏa thích, thích chí còn hơn cả mút kem, phát ra tiếng “chùn chụt” liên hồi. Chỉ một lát sau, cái thai nhi đã khô quắt thịt da, không còn nhúc nhích nữa. Nó nhét cái xác thai nhi vào trong lồng ngực, phóng lên trên mái nhà, lẩn vào bóng đêm tối mò. Trong phòng giống như chưa từng có chuyện gì phát sinh, Vương tẩu vẫn cứ ngủ mê mệt không tỉnh, còn cô vợ trong lúc không hay biết gì đã biến thành một cái xác.

Ngư Tứ Nhi kinh sợ. Nếu không phải gã ăn trộm không thành, trốn ở trong tủ quần áo không ra ngoài được, nhờ vào ánh trăng nhìn thấy rõ ràng, nào ai biết được cô vợ này đã chết như thế nào, con khỉ ngựa kia rốt cục là yêu quái ở đâu? Y cũng định báo quan, nhưng sự việc hoang đường như vậy nhất định sẽ không có ai tin tưởng. Huống hồ y vào nhà người ta ăn trộm, nhà này lại xảy ra án mạng, liệu cơ quan điều tra có bắt y gánh tội thay hay không? Phạm tội liên quan đến tính mạng con người sẽ không tránh khỏi bị áp giải ra pháp trường Tiểu Lưu trang ăn kẹo đồng, chết thành quỷ oan khuất.

Ngư Tứ Nhi không dám ở lại trong phòng nữa, lặng lẽ không một tiếng động chuồn ra ngoài, chạy một mạch về nhà. Đến ngày hôm sau, khi gặp Gà con, hai người ăn chia tiền bạc sòng phẳng xong, Ngư Tứ Nhi kể lại câu chuyện mình đã nhìn thấy vào đêm qua, cứ tưởng rằng Gà con sẽ không tin, ai ngờ hắn cũng đã từng nhìn thấy con khỉ ngựa kia. Gà con kể lại cho Ngư Tứ Nhi, trước đó một thời gian ngắn, hắn đã được xem một màn ảo thuật với bản lĩnh siêu phàm ở chợ buôn bán lừa ngựa, có khả năng giữa ban ngày ban mặt ngay trước mặt mọi người diễn được màn ảo thuật “Vạn người biến thành quỷ”.

Cửu Hà Hạ Sáo là đầu mối thuỷ bộ, thương nhân tập trung, tụ tập đủ mọi hạng người, ảo thuật diễn xiếc mãi võ vô số kể, chẳng có cái gì mà dân chúng chưa từng xem qua. Lấy màn ảo thuật “Vạn người biến thành quỷ” này ra làm ví dụ, thông thường là diễn vào lúc nửa đêm không có ánh trăng, những người hiếu kỳ đứng xem quây lại thành một vòng tròn, màn ảo thuật diễn ở chính giữa. Trước khi diễn, người diễn xiếc mào đầu một đoạn, ví dụ như: “Ở nhà dựa vào cha mẹ đi ra ngoài nhờ vả bằng hữu, tới vùng đất trù phú này định thể hiện tài vặt trước mặt liệt vị, có tiền thì đã lập sân khấu, không tiền đành phiền chư vị đứng xem tôi biểu diễn một màn xiếc tổ truyền”, sau đó châm một cây nến. Ánh nến vừa chiếu ra, gương mặt tất cả mọi người đều đã tái đi. Trong lúc nhất thời, bầu không khí trở nên vô cùng âm u khiến cho người xem phải sợ hãi. Màn ảo thuật nổi danh này có tên là “Vạn người biến thành quỷ” .

Màn ảo thuật cổ xưa này còn được gọi là thuật ảo giác, tất cả đều là giả, nhưng mọi người không thể nhìn ra chỗ giả trong đó, nếu không thì làm gì còn nổi tiếng đến thế. Dân bản xứ đã xem những màn biễu diễn như thế này rất nhiều lần, ngay cả trẻ con cũng biết đến màn ảo thuật với ngọn nến nổi danh này. Người ta sử dụng ngọn nến có tính chất đặc biệt, khi đốt lên chẳng khác gì ma trơi, đừng nói chiếu vào mặt người, ngay cả chiếu vào cục gạch cũng chỉ là một màu xám ngắt. Nhưng nghe nói màn ảo thuật “Vạn người biến thành quỷ” này đã thất truyền cả mấy trăm năm, cách diễn của những người làm xiếc rong hiện giờ đã hoàn toàn khác xưa, cách diễn xưa đã không còn ai nhìn thấy nữa rồi.

Gà con tình cờ gặp một biểu diễn ảo thuật ở chợ buôn bán lừa ngựa. Chợ buôn bán lừa ngựa là một khu đất trống cách vùng trũng ở phía nam không xa. Mùng chín hàng tháng, nơi này lại tổ chức phiên chợ buôn bán các loại gia súc như la ngựa. Lần đó, hắn ăn trộm được một con lừa, lôi đến chợ buôn bán lừa ngựa, khi thu tiền xong nhìn thấy có ảo thuật bèn hiếu kỳ đi xem. Chỉ mất có mấy đồng bạc lẻ ai ngờ lại được xem màn ảo thuật với thủ đoạn cao siêu như vậy. Giữa ban ngày ban mặt, lại trong tầm mắt của cả một đám đông đứng xung quanh xem, nhưng thân hình ảo thuật gia vẫn biến mất rước sự chứng kiến của tất cả. Không một ai nhìn ra người đó biến mất bằng cách nào. Có người hiểu biết bảo, đây mới là màn ảo thuật cổ xưa “Vạn người biến thành quỷ” đã thất truyền nhiều năm .

Biểu diễn xong màn “Vạn người biến thành quỷ”, ảo thuật gia chắp tay thi lễ xung quanh rồi cầm cái cái chiêng đồng xin tiền thưởng. Những người đến chợ buôn bán lừa ngựa buôn bán gia súc không thiếu những ông chủ bản địa, còn có cả những thương nhân buôn bán gia súc lớn đến từ tỉnh ngoài, tất cả đều là người có tiền. Mọi người chỉ chờ ảo thuật gia bộc lộ tài năng, nếu như màn biểu diễn hấp dẫn họ sẽ không tiếc tiền ban thưởng.

Ảo thuật gia cũng là kẻ tham tiền, lại diễn một màn ảo thuật bí ẩn hơn nữa tên là “Hái đào trong tranh”. Màn ảo thuật cổ “Vạn người biến thành quỷ” ít ra còn có người đã từng được xem, nhưng với màn “Hái đào trong tranh” thì đến cái tên cũng cũng chưa từng nghe thấy. Ngày hôm đó, toàn bộ những người vây quanh coi như được mở rộng tầm mắt.

Chỉ thấy ảo thuật gia dắt một con khỉ ngựa ra, rồi lại lấy ra một bức tranh cuộn cổ, mở bức tranh cho mọi người xem. Trong tranh có vẽ một cây đào, nó đã kết trái được một quả bàn đào lớn chín mọng, giấy của bức tranh đã ố vàng. Đến khi mọi người đứng xem đã nhìn rõ ràng, ảo thuật gia vẫy tay một cái, con khỉ ngựa đứng bật dậy, đi thẳng tới bức tranh. Mọi người hoa mắt một cái, trong sân diễn đã không còn bóng dáng của con khỉ ngựa. Mọi người đều tấm tắc cảm thấy kỳ lạ, con khỉ ngựa kia đã biến đi đâu? Đến khi nhìn vào bức tranh cổ thì đã thấy có thêm một con khỉ ngựa ở bên trong. Ảo thuật gia vung bức họa một cái, con khỉ ngựa lại xuất hiện ở chỗ cũ, tay cầm một quả bàn đào há to miệng gặm từng miếng lớn. Bức tranh vẫn là bức tranh cũ, nhưng quả bàn đào trên cây trong bức tranh đã không còn thấy đâu nữa. Toàn bộ những người hiếu kỳ đứng xem đều mắt tròn mắt dẹt, rất lâu sau mới hồi phục được tinh thần, cất tiếng khen hay như sấm nổ, thi nhau thưởng tiền.

Gà con chen vào trong đám người xem náo nhiệt, nhìn thấy thế thèm rỏ dãi. Không ngờ diễn ảo thuật lại có thể kiếm được nhiều tiền như vậy, chẳng mấy chốc đã kiếm được mấy đồng. Tại sao mấy đồng đã được gọi là nhiều? Vào thời Dân quốc mọi thứ đều rất rẻ, một đồng có thể mua được một túi bột mỳ tầm bốn năm mươi cân, đủ cho một gia đình ăn trong một tháng. Gà con nảy sinh ý nghĩ đen tối, định đánh cướp số tiền đó của ảo thuật gia, tốt nhất là còn có thể buộc người này khai ra chân tướng bí mật của mấy màn ảo thuật đó. Nếu học được khả năng này, sau này chẳng phải hắn sẽ ngày ngày được nhắm sơn hào hải vị hay sao. Sau khi phiên chợ tan, hắn bám riết theo sau ảo thuật gia. Khi tới trước căn nhà bị ma ám ở ngã tư đường nghĩa trang nhà họ Ngụy, một người một khỉ đi ở phía trước đột nhiên biến mất. Gà con đã từng sống ở khu vực này, hắn thừa biết căn nhà bị ma ám ở ngã tư đường nghĩa trang nhà họ Ngụy có nhiều căn phòng bí mật. Năm xưa, nguyên nhân chủ yếu mà vị hội chủ mua lại căn nhà bị ma ám này là vì bí mật buôn thuốc phiện đen, nhằm dễ dàng tiến hành những giao dịch ngầm không thể để lộ ra ngoài ánh sáng trong những căn phòng bí mật. Về sau, một nhà năm người chết bất đắc kỳ tử trong nhà, kể từ đó không ai còn dám ở nữa, ngôi nhà bị bỏ hoang từ đó đến giờ. Ảo thuật gia chắc chắn là đã chui qua địa đạo vào trong nhà, nhưng diễn ảo thuật kiếm được không ít tiền, tại sao kẻ này lại phải ở trong ngôi nhà bị ma ám?

Sáu

Gà con sợ đơn sợ kép, chỉ dám đứng canh ở phía đối diện bên kia đường cái nhìn chằm chằm vào ngôi nhà hoang. Đến đêm, hắn nhìn thấy con khỉ ngựa ra khỏi nhà, mặc quần áo của con người, hành tung lén lén lút lút, đi vào thành không biết để làm cái gì. Mỗi lần ảo thuật gia ra ngoài kiếm tiền đều đi theo hướng vùng đất trũng phía nam, mà không đi vào thành. Chẳng ai ngờ, Ngư Tứ Nhi lại bất chợt bắt gặp con khỉ ngựa đó. Hai thằng kể lại chuyện của mình xong, cảm thấy tên ảo thuật gia này không phải hạng tốt đẹp gì, ngày mai mỗi thằng xách một con dao phay, cầm theo đèn bão, chui vào trong nhà tóm lấy tên ảo thuật gia, trấn lột lấy một mớ tiền tài, đồng thời còn bắt hắn khai ra chân tướng của màn ảo thuật vạn người biến thành quỷ và hái đào trong tranh ra. Bình thường, Gà con luôn thích chọc ngoáy vào yếu điểm của người khác, cho rằng cái tên ảo thuật gia này có tật giật mình, sẽ không dám phản kháng lại hai thằng bọn chúng. Còn con khỉ ngựa kia dù có bản lĩnh đến thế nào cũng chỉ là một con súc sinh mà thôi. Trước nay Ngư Tứ Nhi cứ dính đến trộm cướp là coi trời bằng vung, giờ lại có tên lưu manh Gà con cầm đầu, đương nhiên là không có nửa câu phản đối. Ngày hôm đó, khi chúng ra khỏi nhà, đi đến giữa đường thì trời nổi mưa giông. Hai thằng đội mưa chạy vào ngôi nhà bị ma ám, vừa mới vào trong đã nhìn thấy con khỉ ngựa ngồi chồm hỗm ngay trước mặt, hai mắt nó nhìn chằm chằm vào cái nắp phần mộ đã mở tung. Thấy có kẻ lạ đột nhập, nó lập tức nổi khùng tấn công. Dao phay còn không chưa kịp rút ra, Gà con đã bị con khỉ ngựa vung tay cắt đứt đầu. Ngư Tứ Nhi sợ mất hồn, ngồi phệt xuống đất, cho rằng hôm nay sẽ phải về chầu tổ tiên. Không ngờ tới, khi cái đầu Gà con lăn xuống hầm mộ, ba người Quách sư phụ nghe được động tĩnh, vội chạy lên trên. Con yêu khỉ thấy đối phương nhiều người, lập tức trốn mất dạng.

Nghe Ngư Tứ Nhi nói xong, mấy người Quách sư phụ đều kinh sợ. Tên ảo thuật giá tám chín phần mười là Liên Hóa Thanh, bởi kẻ này đã từng bái một người dạy xiếc khỉ làm thầy, đồng thời hắn còn dắt theo một con khỉ. Hắn trốn ở trong nghĩa trang nhà họ Ngụy không dám vào thành. Bên ngoài mưa to gió lớn, đường đã ngập nước, một người một khỉ nhất định vẫn còn ở trong căn nhà bị ma ám này, giờ đúng là lúc nên lùng bắt y.

Lý Đại Lăng nói: “Ông anh có nghe thấy Ngư Tứ Nhi đã nói gì không, kẻ này biết sử dụng yêu tà sống, chỉ với mấy người chúng ta liệu có đối phó được hắn không?”

Quách sư phụ nói yêu thuật và ảo thuật cũng chẳng có gì khác nhau, cả hai đều là thuật đánh lừa thị giác, còn gọi là thuật gây ảo giác. Nghe lớp người già nói, vào những năm cuối triều Thanh, Thiên Tân vệ xuất hiện một vị tiên cô, có khả năng triệu yêu vời thần. Bà ta chỉ cần châm một ngọn nến, quỷ thần đến tức thì. Bà ta dẫn theo hai đồng tử, cả hai đều là đàn ông cường tráng. Năm canh tý (1900), quân đồng minh tám nước đến xâm chiếm, vị tiên cô này tuyên bố sẽ thỉnh thiên binh thiên tướng xuống nghênh địch. Bà ta dẫn theo hai tên đồng tử hơn 30 tuổi, cầm kiếm gỗ lên trên cổng thành làm phép. Thiên binh thiên tướng còn chưa thấy đâu, ba người bọn họ đã bị đạn pháo của người phương tây bắn tan xác. Thật ra, vị tiên cô đốt ngọn nến còn được gọi là đèn cầy triệu yêu, chỉ là màn ảo thuật đánh lừa tai mắt thiên hạ mà thôi. Có lẽ “Vạn người biến thành quỷ, hái đào trong tranh, ngũ quỷ chuyển thi” xuất xứ từ yêu thuật Ma Cổ Đạo cũng chẳng khác gì cái này.

Đinh Mão hỏi: “Ngũ quỷ chuyển thi là loại yêu pháp gì thế?”

Quách sư phụ nghe Ngô Lão Hiển từng nói, ngũ quỷ chuyển thi là một trận pháp của Ma Cổ Đạo để khai quật quan tài, ăn cắp đồ quý. Về phần những trận pháp bàng môn tả đạo, từ thời Thanh mạt cho đến nay đã dần im hơi lặng tiếng không để lại dấu vết. Nhưng vẫn là câu nói kia, thời buổi này đâu còn như xưa, tại sao lại gọi là “Ngũ quỷ chuyển thi” ? Ngũ quỷ chính là năm xác chết. Tương truyền, trước kia có kẻ trộm mộ khai quật mộ giữa ban ngày, nhưng cho dù dùng hết mọi cách cũng không thể mở được nắp quan tài, đó là bởi cương thi trong quan tài muốn trốn kiếp số thiên lôi địa hỏa. Nếu gặp phải tình huống này, có hai biện pháp. Một là bày trận ngũ quỷ chuyển thi, hai là niệm chú mở quan. Đến giờ đã không còn ai tin tưởng vào những trò lừa thần gạt quỷ này nữa, nhưng vào thời ấy thực sự có không ít người tin tưởng.

Lý Đại Lăng an lòng, xốc cổ Ngư Tứ Nhi nhũn như một gà con bị cắt tiết đi theo sau Quách sư phụ. Đinh Mão đóng cửa nhà lại. Bốn người lục soát khắp nơi tìm cửa ngầm, phát hiện ra cái lò sưởi xây ngầm trong tường có vấn đề, bởi nó được xây giống hệt như vách tường. Nếu như trước đó không biết trong nhà có đường ngầm, sẽ chẳng có ai tìm ra được. Họ đẩy cửa ngầm ra, bên trong tối om.

Đúng vào lúc họ ngó vào trong xem xét, con khỉ ngựa đột nhiên nhảy vọt ra, vung bàn tay ma của nó lên, chụp thẳng vào mặt Ngư Tứ Nhi.

Ngư Tứ Nhi đã sợ mất hồn tránh không kịp, nửa khuôn mặt bị nó chém phăng. Y hét thảm một tiếng đổ sập xuống đất, hai chân co giật mấy cái, rõ ràng là không sống nổi.

Mấy người Quách sư phụ giật mình kinh hoảng, chỉ trong một thời gian ngắn như vậy đã có hai kẻ mất mạng, vội vàng lôi cây búa cán gỗ đàn ra, nhè vào đầu con khỉ ngựa mà chém.

Con khỉ ngựa vô cùng nhanh nhẹn, nó cúi phắt người vểnh đít lên né tránh búa. Nó nhanh nhưng Đinh Mão còn nhanh hơn, gã vung chân đá một phát vào mông con khỉ. Con khỉ ngựa rú lên một tiếng quái dị, miệng phun ra bọt máu.

Lý Đại Lăng thừa cơ tiến lên, bổ một nhát búa vào đầu con khỉ, không cho nó cơ hội trở mình, tiếp theo lại bổ thêm vài nhát, nhát nào cũng dốc hết sức bình sanh.

Tuy con khỉ ngựa gian trá có linh tính, nhưng dù sao cũng chỉ là thân thể máu thịt. Sau khi bị bổ mấy nhát búa, nó đã biến thành một đống máu thịt bầy nhầy, óc vỡ toang, mất mạng ngay tại chỗ.

Đinh Mão đạp vào xác con khỉ một cái, chửi: “Hôm nay xem như mày đã gặp báo ứng.”

Lý Đại Lăng kêu ầm lên: “Đừng để Liên Hóa Thanh chạy, vào bắt người trước đã!” Gã cứ tưởng con khỉ ngựa rất khó đối phó, nhưng xem ra cũng không chịu nổi búa chém, vậy thì còn gì đáng phải sợ nữa. Lúc bấy giờ, gã cầm theo cây đèn thủy nguyệt, miệng thì chửi mắng thậm tệ, lôi cả mười tám đời tổ tông Liên Hóa Thanh ra mà rủa, tiếng chửi tục tĩu vang vọng khắp đường hầm trong ngôi nhà ma. Quách sư phụ sợ gã có sơ xuất, không dám nghĩ ngợi gì nữa, vội nhặt cây đèn bão của Ngư Tứ Nhi lên rồi lôi Đinh Mão chạy theo sau, nhưng lại không ngờ tới kẻ đang chờ họ ở bên trong là một nhà năm người đã chết ở trong ngôi nhà bị ma ám.

Bảy

Ba anh em chui vào trong quan sát, đường hầm thông với tất cả các tầng. Tầng hầm đã ngập trong nước, tầng một tầng hai là hành lang với khoảng không chật hẹp, tầng ba có một gian phòng. Ngôi nhà ở ngã tư đường nghĩa trang nhà họ Ngụy này có hai tầng, đứng ở bên ngoài không thấy có gì khác lạ, chỉ đến khi thông qua đường hầm chui vào trong nhà mới thấy có các đường rẽ khác thông lên tận mái nhà. Không khí trong phòng sặc mùi ẩm ướt và mục nát. Ba người leo lên tầng, mang theo đèn thủy nguyệt chiếu sáng để lục soát khắp nơi. Đập vào mắt chỉ là bốn bức tường quét vôi, bên ngoài tường đã mốc meo cả rồi, cũng có cả chăn nệm quần áo, nhưng ngoại trừ ba người họ ra, trong phòng làm gì còn có ai khác.

Ba người cho rằng Liên Hóa Thanh trốn ở trong phòng, nhưng nào ngờ trong đó lại không có ai. Họ lục soát hết toàn bộ một lần nữa, nhưng không còn lối đi bí mật nào nữa, có lẽ Liên Hóa Thanh đã chạy trốn mất rồi, kẻ này gian ngoan khỏi phải bàn. Lúc này mà còn không bắt được hắn, sau này sẽ không dễ kiếm được một cơ hội khác. Lý Đại Lăng nóng nảy dậm chân hậm hực, tiền thưởng sắp đến tay còn vuột mất.

Đinh Mão bảo ngôi nhà ma ở nghĩa trang nhà họ Ngụy đã thay đổi vài đời chủ nhà, thời gian mỗi một gia đình lưu trú lại không dài, vài chục năm chưa được coi là quá lâu, nhưng ngôi mộ phía dưới lại được cải tạo thành hầm ngầm. Ngã tư đường có không ít người treo cổ, khẳng định là không an lành. Thông thường mỗi khi phải đi ngang qua đây, mọi người đều đi vòng qua, trong nhà lại có lối đi bí mật, Liên Hóa Thanh muốn tìm một nơi để ẩn núp, không còn nơi đâu thích hợp hơn so với nghĩa trang nhà họ Ngụy nữa. Lúc này, mặc dù hắn đã chạy thoát, nhưng chắc chắn sẽ phải để lại dấu vết nào đó.

Trong khi đang nói chuyện, sống lưng đột nhiên lạnh rợn cả người, ba người quay đầu lại nhìn, vừa mới nhìn họ đã sợ tới mức thiếu chút nữa đứng tim. Kể ra cũng lạ, trên tường hiện lên năm cái bóng đen, mơ mơ hồ hồ nhìn không rõ là ai, tuy nhiên xác thực là có người đang đứng trước cái đèn, in bóng mình lên trên tường, nhưng trong phòng rõ ràng là không có năm người này.

Đinh Mão cố lấy dũng khí, đưa tay sờ lên tường. Bức tường gạch kín mít lạnh như băng, ngoài mặt tường không có bất cứ thứ gì khác lạ, nhưng năm cái bóng người kia càng lúc lại càng hiện rõ.

Ba người họ cầm theo một chiếc đèn thủy nguyệt, đứng đối mặt với vách tường nên bóng của họ hắt ra phía sau, không hiểu nổi năm bóng đen trên vách tường xuất phát từ chỗ nào.

Quách sư phụ lên tiếng: “Nhìn có vài phần quen mắt, hình như là đã gặp ở đâu. . .”

Đinh Mão nói: “Là bức vẽ một nhà năm người ở trong phòng khách, năm cái bóng trên vách tường có hình dáng giống như những người trong bức vẽ.”

Lý Đại Lăng: “Liệu có phải những người đã chết trong ngôi nhà bị ma ám này hiện hồn lên không? Nếu không thì vô duyên vô cớ tại làm sao trên vách tường lại hiện lên năm bóng ma như thế?”

Quách sư phụ thầm cảm thấy việc này kỳ quái. Ông ta chợt nhớ tới cây đèn cây triệu yêu của vị tiên cô, bèn bảo: “Cây đèn thủy nguyệt là vật trong ngôi nhà ma này, có lẽ đã bị người động chân động tay, cũng có thể là trên tường đồ đã quét mực nước, bình thường không thấy gì, đến khi chiếu đèn vào mới thấy hình ảnh hiện ra.”

Lý Đại Lăng thốt lên: “Tôi cứ tưởng là thế nào, hóa ra chỉ là thủ đoạn hù dọa lũ trẻ lên ba.”

Đinh Mão nói: “Nhị ca nói có lý, dù sao đánh người một quyền, cũng phải phòng người ta đá một cước. Chúng ta ở ngoài sáng, Liên Hóa Thanh ở trong tối, mọi việc nên cẩn thận, đừng có rơi vào bẫy của kẻ khác.”

Quách sư phụ bảo Lý Đại Lăng tắt cây đèn kia đi, chỉ dùng cây đèn bão của Ngư Tứ Nhi mang từ bên ngoài vào để chiếu sáng.

Lý Đại Lăng thuận theo tắt đèn đi. Ba anh em nhờ vào ánh sáng mờ ảo của cây đèn bão, ngẩng đầu lên nhìn lại vách tường xem sao, năm cái bóng đen vẫn còn sờ sờ ở đó.

Đinh Mão không tin hình ảnh ma quỉ đó, vung cây búa cán gỗ đàn lên, bổ một nhát lên vách tường. Dù đã tạo ra một vết búa trên tường nhưng mấy cái bóng trên đó vẫn không suy chuyển, càng nhìn càng thấy giống thật, giống như thực sự có năm người còn sống đang đứng trước cây đèn vậy.

Trong lòng ba người kinh sợ, không dám thở, đứng nguyên tại chỗ nhìn không chớp mắt, nhất thời không dám vọng động.

Lại chờ thêm giây lát, vẫn không nhìn ra chỗ kỳ quái, nhưng bóng hình hai vợ chồng cộng với hai đứa con gái một con trai trên vách tường càng lúc càng rõ hơn, quả thực sống động y như thật.

Quách sư phụ chợt phát hiện bóng người trên tường đã không còn giống như lúc ban đầu, quay sang hỏi Đinh Mão và Lý Đại Lăng, nhưng hai người lại chẳng nhận ra điều đó. Quách sư phụ cho rằng mình đã nhìn nhầm.

Trong lòng nổi lên kinh sợ, Lý Đại Lăng bèn nói: “Bên trong ngôi nhà ma này không an lành, theo tôi thấy có lẽ chúng ta cứ quay về đã, sau đó mời đạo sĩ Thiên Sư mang theo phù chú, lúc ấy quay lại cũng không muộn.”

Trong khi trao đổi vài câu, tầm mắt ba người vô tình chuyển lên chỗ vách tường, nhưng nào còn thấy bóng ma của một nhà năm người đâu nữa. Họ đột nhiên cảm thấy có một bàn tay lạnh như ma tóm vào cổ, bèn đưa tay lên cổ lần mò, nhưng không chạm vào cái gì. Họ xoay đầu lại nhìn, không ngờ mấy bóng ma kia đã chuyển ra phía sau lưng mình từ lúc nào, đang thò tay tóm vào mấy cái bóng in trên mặt đất của ba người. Lúc bấy giờ, cây đèn bão chuyển động, nhưng cái bóng của họ lại vẫn bị năm bóng quỷ kia tóm chặt bất động.

Ba người đều giật mình kinh hoàng, trong lúc hoảng loạn ném bừa búa ra. Nhưng khi cây búa đánh trúng vào bóng ma trên mặt đất, họ lại cảm thấy bàn tay bóp cổ mình càng lúc càng chặt hơn, không tài nào thở được, chẳng mấy chốc sẽ phải chết trong ngôi nhà bị ma ám ở nghĩa trang nhà họ Ngụy.

Tám

Lúc đối mặt với cái chết, Quách sư phụ đột nhiên phát hiện ra cây đèn bão này cũng không thể thắp lên, không cần biết trong phòng có vật gì, chỉ cần có vật chiếu sáng là có khả năng thi triển tà pháp giết người. Ông ta buông tay, thả cái chén đèn bão xuống. Tầm mắt trở nên tối sầm, bàn tay đang bóp cổ ba người lập tức lỏng ra. Ba người kinh hoàng không sao trấn tĩnh lại được, mắt không nhìn thấy gì, chỉ có tiếng thở hổn hển, may mà cái khó ló cái khôn, nhặt lại được tính mạng.

Lúc ấy, Quách sư phụ linh cảm trước mặt còn có người khác. Nói ra kể cũng lạ, vừa rồi thắp đèn thì không nhìn thấy, nhưng đến lúc trong phòng tối đen xòe bàn tay ra trước mặt không nhìn thấy năm ngón, kẻ nọ mới thừa cơ tối om đi lại gần, chẳng hiểu là định sẽ làm gì. Quách sư phụ cảm thấy kẻ này lai giả bất thiện, trong hoàn cảnh tối lửa tắt đèn không nhìn thấy cái gì, làm sao dám để đối phương lại gần, nhưng cây búa mang theo thì đã ném xuống đất, chỉ với hai bàn tay không thì ứng phó bằng cách nào. Ông ta vừa mới lần mò trong ngực áo thì chạm tay vào viên gạch đã lấy dưới hầm mộ, vội lôi nó ra nhè vào kẻ nọ mà giáng xuống, chẳng ngờ một cú đánh trúng ngay vào đầu hắn. Chỉ nghe đối phương hự lên một tiếng đau đớn, rồi đổ sập xuống đất.

Đinh Mão nghe thấy có chuyện, vội đánh diêm lên. Hai mắt ba người sáng lòa, đập vào mắt là một gã đàn ông nằm vật trên mặt đất, bàn tay vẫn nắm chặt một cây chủy thủ, mặc áo gai đầu đội mũ quả dưa, khoác một cái áo trấn thủ màu đen, trên mặt có dán cao dán, không nhận ra là ai. Họ bèn giật lá cao dán xuống, nhìn thấy một kẻ tầm 20 tuổi, khuôn mặt anh tuấn, hai cái chân mày giao nhau, là một kiểu Nhất Tự Mi hiếm có, chẳng phải Liên Hóa Thanh thì còn có thể là ai.

Hóa ra Liên Hóa Thanh trốn ở trong ngôi nhà ma, phát hiện ra có người lẻn vào trong, hắn ỷ vào có tà thuật đánh lừa tai mắt người khác, thật chất là cùng một loại với thuật thôi miên của ngoại quốc, nhưng xưa kia bị người ta liệt vào yêu pháp. Bởi vậy dù có người lẻn vào nhưng hắn cũng không sợ, chỉ là đi đêm lắm có ngày gặp ma, hắn chết cũng là đáng đời. Nhưng nguyên nhân chính đã dồn hắn vào chỗ chết là đã để cho Quách sư phụ phát hiện ra không thể đốt đèn ở trong căn phòng này, cứ có ánh sáng là sẽ gặp quỷ. Đến khi trong phòng không nhìn thấy cái gì nữa, Liên Hóa Thanh thấy tình huống không ổn, định nương theo bóng tối tiếp cận dùng đao chọc chết tươi ba người này, nào ngờ lại bị Quách Nhị gia dùng viên gạch đập một phát trúng đỉnh đầu. Ba anh em kéo hắn từ căn gác lửng lên tầng trên, sờ vào mũi đã không còn hơi thở, hắn đã bị một cú đập bằng gạch đánh chết tươi.

Căn cứ vào cách nói thuyết tướng số, lông mày giao nhau đi kèm với mắt có hai con ngươi thuộc về tướng quân thần xung khắc, là tướng mạo tiểu quỷ đoản mệnh, nhưng khi ba người đứng nhìn xác Liên Hóa Thanh trong quan tài dưới hầm mộ lại cảm thấy vô cùng thất lạc. Đinh Mão và Lý Đại Lăng cứ chắc mẩm rằng khi bắt được Liên Hóa Thanh sẽ giao cho quan phủ trị tội. Căn cứ vào những án mà kẻ này phạm vào, hắn không tránh khỏi số mệnh ăn kẹo đồng. Thời dân quốc không có hình phạt chém đầu, nếu bị tử hình chỉ có xử bắn, áp giải ra pháp trường bên ngoài cửa tây hành quyết, bị xử bắn được gọi là “Ăn kẹo đồng”. Sau đó ba anh em sẽ báo công nhận phần thưởng, tên tuổi vang xa thành bảng hiệu, nhưng họ thật sự không ngờ tói Liên Hóa Thanh lại chết vớ vẩn như vậy. Nhưng dù là còn sống hay đã chết, họ cũng phải mang thi thể về mới đưa ra được một câu trả lời thỏa đáng. Trong khi ba người trao đổi với nhau, mưa vẫn rơi không ngừng, nước lũ đã tràn vào trong nhà.

Trái tim ba anh em như sắp nhảy ra ngoài lồng ngực, mắt thấy nước ngập càng lúc càng sâu, cái hầm mộ và xác chết dưới tầng một đều đã bị nước lũ nhấn chìm, không thể không leo lên tầng hai. Vừa mới ngó ra bên ngoài nhìn một cái, trái tim ba người đã trầm xuống. Mưa như trút nước chắn hết tầm nhìn, tấm bia đá đối diện nghĩa trang nhà họ Ngụy hoàn toàn mù mịt trong mưa, thậm chí ngay cả phía bên kia đường cũng không nhìn thấy, khắp nơi nước đã chảy thành sông. Trước kia, lúc xảy ra thiên tai nghiêm trọng nhất, mưa lớn như vậy đến nửa đêm mà vẫn còn chưa đến mức xảy ra lũ lụt. Nhưng vị trí nghĩa trang nhà họ Ngụy nằm ở dưới thấp, toàn bộ nước mưa xối xuống nội thành đều đổ dồn về chỗ này. Có dạo người ta nói sẽ dỡ bỏ khu nhà cấp bốn bên kia, cho nên mấy căn nhà tầng bên này cũng chẳng còn ai ở. Mặc dù chưa bị phá bỏ, nhưng toàn bộ điện nước đã bị cắt hết, cống rãnh thoát nước trước kia cũng đã bị tắc nghẽn, nên mỗi khi gặp mưa to những nơi khác còn chưa bị làm sao thì nghĩa trang nhà họ Ngụy đã chìm dưới nước rồi. Lúc bấy giờ, nước đã ngập quá nửa căn nhà, đường cái đã sớm biến thành biển nước mênh mông.

Năm xưa có vài khu dân cư được gọi là hố sâu tam cấp. Tam cấp mang hàm nghĩa là ba tầng, bởi vì nhà ở cũ nát, trong khi đó phòng ốc lại không ngừng lún xuống, mặt đường không ngừng nâng cao; Tầng thứ nhất là mặt đường cái cao hơn ngõ hẻm, tầng thứ hai là mặt ngõ hẻm cao hơn mặt sân, mặt sân lại cao hơn nền phòng ở, đây là tầng thứ ba. Tầng nọ thấp hơn tầng kia kế tiếp nhau, cuối cùng nền phòng ở là thấp nhất, trời chỉ cần mưa lớn hơn bình thường một chút là mỗi nhà đã được tham dự trận đánh thủy tinh dâng nước đánh sơn tinh rồi, toàn bộ cả nhà từ già đến trẻ cầm xô chậu rửa mặt tát nước trong nhà ra ngoài, trẻ con hai ba tuổi thì được thả ngồi trong chậu gỗ, trong phòng có cái gì nổi được đều biến thành du thuyền, cuộc sống khổ không sao tả xiết. Những người ở khu đó sợ nhất mùa mưa, bởi vì phòng ở nằm trong vùng trũng, trong phòng ẩm ướt, khả năng thông gió lại kém, đặc biệt là vào mùa hạ, những ngày trời oi bức thì người ta khó mà thở nổi, những ngày mưa dầm thì tám chín phần mười nước chảy vào đầy nhà, lúc nào cũng phải chuẩn bị sẵn một đống xô chậu để mà tát nước. Chính bởi vậy mà đồ gia dụng của rất nhiều nhà mủn nát ngâm trong nước lâu ngày. Trước kia, khi nghĩa trang nhà họ Ngụy còn chưa bị san phẳng, một loạt nhà cấp bốn là điển hình của hố sâu tứ cấp, bởi vì mặt bằng khu bên ngoài cao hơn vùng trũng phía nam một cấp, do đó mới gọi là “Hố sâu tứ cấp”; Còn người dân quen gọi là rốn nghèo, để miêu tả sinh động toàn bộ những người ở khu nghĩa trang nhà họ Ngụy đều là dân cùng khổ, nhưng chỉ cần có ai vượt ra khỏi cái vùng trũng này thì chắc chắn sẽ giàu có. Sau này phòng ốc bị san phẳng toàn bộ, những địa danh như vùng trũng phía nam lầy lội, hố sâu tứ cấp kể cả nghĩa trang nhà họ Ngụy đều đã vĩnh viễn đã trở thành lịch sử. Nhưng nội thành vẫn còn lại một vài khu dân cư được gọi là hố sâu tam cấp, chúng còn tồn tại mãi đến cuối những năm tám mươi, trải qua mấy lần cải tạo nhà cửa với quy mô lớn mới dần được cải thiện.

Có thể nghĩ ra, khi ấy mấy người Quách sư phụ mang theo xác Liên Hóa Thanh, muốn chạy cũng đã không có cách nào chạy nổi, bởi đường cái đã ngập đến ngang lưng, nước lũ đã mấp mé chạm tới đỉnh tấm bia đá ở đầu đường. Cũng còn may là dù dòng nước lũ rất lớn nhưng vẫn còn chưa đến mức nhấn chìm được tòa nhà. Chỉ cần trời ngớt mưa, nước lũ sẽ rút đi rất nhanh. Tuy nhiên, xem chừng trận mưa này kiểu gì cũng phải kéo dài đến nửa đêm mới tạnh. Ba người nhìn xác Liên Hóa Thanh mà rối bời, ban ngày thì không có vấn đề gì, nhưng bấy giờ trời tối đen dù có thắp đèn cũng chẳng có tác dụng, ai dám đảm bảo là sẽ không có vấn đề gì bất ngờ xảy ra?

Chín

Đúng lúc đang không biết làm sao, ba người nhìn thấy xa xa có mấy chiếc thuyền nhỏ chèo tới. Thì ra bên trong khu nhà cấp bốn ở nghĩa trang nhà họ Ngụy vẫn còn một số dân chạy nạn từ nơi khác đến và mấy người nhặt ve chai ở, số lượng không nhiều lắm, hơn nữa mỗi người còn ở một nơi. Những cư dân này đều dọn vào ở sau thời điểm xảy ra lũ lụt năm trước, không biết nơi đây chỉ cần mưa to một chút là sẽ bị ngập. Khi nước dâng lên khắp nơi, định chạy thì đã không còn kịp rồi, đành phải trèo lên mái nhà tránh lũ. Trong nội thành có đội tuần sông của cảnh sát đường thủy, họ chèo những chiếc thuyền nhỏ này qua bên đây cứu người, đưa những người trong vùng ngập lụt lên chỗ cao. Khu phía bắc ngã tư đường nghĩa trang nhà họ Ngụy vẫn chưa ngập sâu như bên này, ba người họ vội vàng bơi qua đó. Đội tuần sông cảnh sát đường thủ quen biết ba người, chèo thuyền lại gần đón, dù không hiểu vì sao họ lại còn lôi theo cả người chết, nhưng cũng chẳng lắm chuyện quan tâm hỏi han, cho họ mượn một cái thuyền không, lôi cả người sống lẫn người chết lên rồi chèo theo hướng tấm bia đá quay ngược trở về.

Tấm bia đá trên lưng thú đã bị nước lũ nhấn chìm. Giữa trời mưa mịt mù, tấm bia cổ chỉ còn là một cái bóng đen khổng lồ in hình trên mặt nước, khiến cho mọi người cảm thấy điềm xấu vô cùng. Lúc bấy giờ, khu đất trũng phía nam thành phố đã không còn có dòng sông nào chảy qua nữa rồi. Tương truyền, rất nhiều năm trước kia nơi đây có một con sông cổ, không ai biết được sau đó đã xảy ra chuyện gì. Mấy đời tổ tiên Quách sư phụ dù đều sinh ra và lớn lên ở nơi này, nhưng cũng chưa bao giờ nghe nói có con sông lớn nào chảy qua vùng đất trũng. Ngoại trừ những thầy xem phong thuỷ có thể nhìn ra nơi này trước kia đã từng có sông chảy qua, kể cả những người lớn tuổi đến mấy cũng không biết về điều này. Về phần con thú cõng bia trấn sông cụt đầu này, người ta bảo đó là con bị hí, nhưng cũng chỉ là quan điểm chủ quan không có căn cứ. Rồng sinh chín đứa con không phải là rồng, phân biệt thành chín loại động vật khác nhau, trong số đó có một con gọi là bị hí, sức khỏe vô biên, sống rất lâu, có sức chịu đựng tốt, chuyên cõng bia cho các bậc đế vương. Nhưng trên thực tế không rõ con thú cõng bia đá trấn yêu trừ tà thuộc loài vật gì, bởi vì đầu nó đã bị gãy, không thể nào truy nguyên ra được.

Thời cổ, người ta lập bia với mục đích để cho hậu nhân biết được, nơi đây đã từng xảy ra sự việc lớn nào đó. Nhưng chữ khắc trên tấm bia đá này đã phải hứng gió dầm mưa dãi nắng, lại trải qua không biết bao nhiêu năm tháng, không còn ai có thể đọc được nội dung của nó nữa. Chỉ mỗi Trương Bán Tiên có nói, tấm bia đá được lập cách đó ít nhất là mấy trăm năm, khi mà nơi này vẫn còn con sông, qua hình dạng có thể phán đoán là bia do quan phủ lập. Bởi vì nó chặn nhánh sông chảy sang vùng đất trũng phía nam cho nên đã tích tụ không ít âm khí. Toàn bộ phong thủy của nghĩa trang nhà họ Ngụy bị nó phá hỏng, bởi vậy nên nơi này tà ma, phong thuỷ không tốt.

Mấy người Quách sư phụ leo lên thuyền nhỏ. Qua màn mưa mịt mù, ông ta lờ mờ nhìn thấy tấm bia đá ở ngã tư đường, chợt thất thần trong chốc lát, không tránh khỏi nhớ lại những chuyện đã qua, thầm suy nghĩ: “Trương Bán Tiên chẳng qua chỉ là một kẻ xem bói toán kiếm cơm gia truyền được mấy đời, lúc trước có đề cập đến việc đi nghĩa trang nhà họ Ngụy đuổi bắt Liên Hóa Thanh của chúng ta, bảo chuyến đi này là có đi mà không có về, cuối cùng không phải là chẳng có chuyện gì xảy ra hay sao?” Trong lúc ông ta đang âm thầm suy nghĩ, chợt nghe thấy Lý Đại Lăng nói: “Hôm nay mang xác Liên Hóa Thanh về, cả một chùm những vụ án như dìm xác ngã ba sông, dấu xác trong hộp sắt ở miếu thổ địa, xác chết co nhỏ lại ở nghĩa trang nhà họ Ngụy, coi như đã bị chúng ta phá toàn bộ. Quách nhị ca à, sau này những việc này đồn ra ngoài còn gì hay hơn nữa, anh không phải Thần sông thì còn ai là Thần sông.” Quách sư phụ nghe thấy Lý Đại Lăng nói mấy câu đó, trong lòng chợt run lên: “Hỏng mất, ngàn vạn lần đừng có đề cập đến Thần sông, gọi theo cách này thực sự là không may.”

Quách sư phụ thật tâm bảo Lý Đại Lăng đừng có nói như vậy, nhưng nói ra thì đã trễ. Ông ta cúi xuống nhìn xác Liên Hóa Thanh một cái, đã thấy ngay cái thi thể đã cứng đờ đó đang ngó lại mình. Liên Hóa Thanh bẩm sinh có tướng yêu ma, mắt có hai con ngươi. Một đôi mắt như vậy, nếu người khác nhìn vào sẽ giống như thấy hai cái lỗ thủng sâu hoắm vô cùng đáng sợ. Quách sư phụ nghe nói người chết biến thành thi là điểu chỉ xảy ra vào đêm khuya, nhưng lúc bấy giờ trời vẫn còn sáng, vậy mà cặp mắt ma quái của Liên Hóa Thanh không biết đã mở ra từ lúc nào. Trong lúc kinh sợ, ông ta đột nhiên cảm thấy thân thể mình chấn động mạnh một cái, ba người họ cùng với xác chết nối tiếp nhau rơi xuống nước. Nước lũ mênh mông đã ngập đến nửa phòng của khu nhà cấp bốn. Kỹ năng bơi lội của Thần sông Quách Đắc Hữu khỏi phải bàn, vừa rơi xuống nước ông ta bình tĩnh lại được ngay, nín thở, đạp mạnh hai chân một cái để trồi lên mặt nước, nhưng vẫn kịp nhận ra mực nước lũ sâu hơn mình đã dự đoán, hơn nữa còn lạnh thấu xương. Trong lúc kinh hãi, ông ta không kịp nghĩ ngợi nhiều, vội hợp sức với Đinh Mão hai người túm lấy Lý Đại Lăng không biết bơi, ba người vật lộn bò lên trên bờ. Khi đưa mắt quan sát xung quanh, trong con mưa mịt mù, họ lờ mờ nhìn thấy một tấm bia đá đứng sừng sững cách đó không xa, Liên Hóa Thanh thì đang nằm úp sấp mặt xuống đất ngay dưới chân tấm bia đó, còn đường xá và khu nhà ở nghĩa trang nhà họ Ngụy thì chẳng thấy đâu nữa, xung quanh tấm bia đá chỉ là một vùng đất hoang vu rộng lớn.

Tại sao quyển sách này của tôi lại có tên là “Thần sông — quỷ thủy quái đàm”, bởi vì bên trong nói đến cái con sông đã từng chảy qua khu đất trũng phía nam. Nếu không có con sông này, sao còn có thể gọi là quỷ thủy quái đàm?