Chương 20: Đến Minh Nhạc chính tà quyết chiến

Giáng Tuyết Huyền Sương

Đăng vào: 11 tháng trước

.

Nhưng bà ta vẫn chưa chết, võ công vẫn còn, bà ta đã điểm huyệt đạo hai chúng tôi, tìm được Huyết Trì đồ từ trên người sư muội, giữ sư muội ở lại làm con tin, buộc tại hạ đem bản đồ đến núi Cửu Cung tìm Tri Cơ Tử Ngôn Lăng Phủ để đổi lấy thuốc liền da. Vãn bối chỉ đành đến núi Cửu Cung tìm Ngôn Lăng Phủ, dùng bản đồ đổi thuốc cho nên bản đồ lẽ ra thuộc về Ngôn Lăng Phủ!”.

Đại Phương thiền sư lạnh lùng hỏi:

“Thí chủ đã dùng bản đồ đổi thuốc, tại sao bản đồ vẫn còn trên người thí chủ?”.

Phương Triệu Nam nói:

“Sau khi Ngôn Lăng Phủ được bản đồ, khi đưa vãn bối ra khỏi đầm Hàn Tuyền, đã bị vị Mai cô nương ấy đột nhập vào trong gác nổi, đánh cắp …”.

Đại Phương thiền sư nói:

“Mai cô nương là ai?”.

Phương Triệu Nam nói:

“Đó chính là thiếu nữ áo trắng đêm qua”.

Đại Phương thiền sư chắp tay trước ngực, hạ giọng nói:

“A di đà Phật! Vị cô nương ấy thực là một người đáng kính đáng trọng!”.

Phương Triệu Nam nói:

“Ngôn Lăng Phủ trở về trong gác nổi, thấy Huyết Trì đồ đột nhiên biến mất, lại buộc tại hạ trở về, nhưng khi về đến đầm Hàn Tuyền thì lò luyện thuốc đã bị phá hủy, trong lúc lo lắng đã nổi điên …” thế rồi chàng kể hết mọi chuyện ra, nhưng giấu chuyện đã kết thề với Mai Giáng Tuyết.

Tiêu Dao Tử nghe xong thì chen miệng vào hỏi:

“Ngươi nói cả buổi, nhưng vẫn chưa nói họ tên của quái nhân trong thạch động”.

Phương Triệu Nam nói:

“Lúc đó vãn bối không biết tên của bà ta, sau này từ trong di vật của bà ta để lại, mới phát giác bà ta chính là nữ ma đầu Du Anh Hoa đã nổi danh giang hồ vào hai mươi năm trước”.

Tiêu Dao Tử đột nhiên rùng mình một cái, nói:

“Bà ta thực sự đã chết?”.

Phương Triệu Nam buồn bã nói:

“Khi vãn bối quay về thì bà ta đã chết, cả sư muội của vãn bối cũng bị bà ta hại chết trong động, chắc là trước khi vết thương trở nặng, bà ta đã ra tay hãm hại sư muội của vãn bối. Nữ ma đầu này đã làm không biết bao nhiêu chuyện ác ôn trong đời, trước khi chết còn ra tay hại người, thực là đến chết vẫn không biết hối cãi, bà ta bị nỗi đau khổ dày vò suốt mấy mươi năm cũng coi như là báo ứng”.

Tiêu Dao Tử ho nhẹ một tiếng, nhìn Tụ Thủ Tiều Ẩn:

“Sử huynh ẩn cư ở bãi Triều Dương mấy mươi năm, chắc là biết chuyện này …”.

Tụ Thủ Tiều Ẩn lắc đầu đáp:

“Nói ra thật hổ thẹn, tại hạ đã sống ở bãi Triều Dương mấy mươi năm, thế mà không biết đỉnh đỉnh đại danh Ngọc Cốt Yêu Cơ là hàng xóm của mình”.

Đại Phương thiền sư thở dài nhẹ một tiếng, nhìn Phương Triệu Nam:

“Hỡi ơi!

Sao trong lòng thí chủ có nhiều bí mật như thế mà không chịu nói sớm? Nay bản đồ đã mất, tìm lại cũng khó khăn vô cùng!” Phương Triệu Nam cúi đầu, im lặng không nói. Đại Phương thiền sư đứng ở trước cửa căn thạch thất, nhắm mắt chắp tay. Căn thạch thất chợt trở nên tĩnh lặng, một lúc lâu sau vẫn không ai lên tiếng.

Trương Nhất Bình đứng một bên, đột nhiên phóng ra ngoài, miệng quát lớn:

“Đại sư hãy nhường đường”. Đại Phương thiền sư hạ giọng nói:

“Tạm thời làm phiền đại giá, đợi một lát nữa đi cũng không muộn”.

Trương Nhất Bình cười lạnh một tiếng, hỏi:

“Tại sao?” rồi giơ tay đẩy về phía Đại Phương thiền sư. Lực đạo phát ra rất mạnh, đẩy thẳng vào huyệt Kim Tĩnh trên vai trái của Đại Phương thiền sư. Đại Phương thiền sư đột nhiên mở mắt, lướt nhìn Trương Nhất Bình với ánh mắt sáng quắc:

“A di đà Phật! Thí chủ muốn ra tay với lão nạp ư?” rồi lách vai một cái, tiếp của Trương Nhất Bình một chưởng. Phương Triệu Nam thì nhìn Tụ Thủ Tiều Ẩn, tựa như muốn nói gì đó nhưng lại thôi.

Tiêu Dao Tử lạnh lùng hừ một tiếng:

“Nếu tự tin là trong sạch, vậy hãy đợi một lát rồi đi cũng không muộn, nếu tự tiện ra tay, chắc chắn sẽ tự chuốc lấy khổ!”.

Trương Nhất Bình đánh một chưởng vào vai Đại Phương thiền sư cứ như đánh vào sắt đá, không những chẳng làm bị thương đối phương mà còn cảm thấy một lực phản chấn bật ngược trở lại rất mạnh mẽ, không khỏi đứng sững ra.

Đại Phương thiền sư chợt nhìn Tụ Thủ Tiều Ẩn nói:

“Sử huynh, sau khi vị Trương thí chủ này dưỡng thương trên bãi Triều Dương của ông, phải chăng đã tự bỏ đi?” đó chính là lời Phương Triệu Nam muốn hỏi, cho nên chàng lắng tai nghe. Tụ Thủ Tiều Ẩn suy nghĩ một hồi rồi nói:

“Lúc đó tại hạ giao đấu với hậu viện của bọn Minh Nhạc rất kịch liệt, người này ngồi một bên vừa trị thương vừa quan sát, sau một hồi kịch chiến thì kẻ địch đột nhiên tự động rút đi. Người này lại ở trên bãi Triều Dương của tại hạ khoảng mười ngày, khi thương tích chuyển biến tốt thì tự bỏ đi, song lúc đó tại hạ không hỏi hành tung của ông ta”.

Đại Phương thiền sư im lặng không nói, nheo mắt trầm tư. Lại một lát sau, bốn hòa thượng người khoác cà sa màu vàng vội vàng chạy vào. Khi cách Đại Phương thiền sư khoảng năm bước thì đều ngừng lại, chắp tay cúi người nói:

“Bọn đệ tử đã chia nhau tra hỏi, đêm qua không phát hiện có ai lên núi”.

Đại Phương thiền sư sắc mặt nặng nề, cười lạnh một tiếng nhìn Trương Nhất Bình:

“Trong số những người chúng ta, thí chủ là kẻ đáng nghi ngờ nhất, nhưng lão nạp chưa bao giờ ép người quá đáng, mong thí chủ hãy suy nghĩ cho kỹ rồi trả lời câu hỏi của lão nạp”.

Trương Nhất Bình lạnh lùng nói:

“Đại sư nói như thế không biết có ý gì?”.

Đại Phương thiền sư nhắm mắt, không trả lời câu hỏi của Trương Nhất Bình, trong miệng thầm đọc đại bi kinh. Đoạn kinh này ca tụng sự đại từ đại bi của Phật ta, nghe ra rất trang nghiêm, giống như chuông sớm trống chiều, khiến cho người ta tỉnh giấc. Đọc xong đoạn kinh, sắc mặt Đại Phương thiền sư cũng trở nên ôn hòa, ông ta chậm rãi đưa tay ra, mỉm cười nói:

“Chuyện sống chết của võ lâm đồng đạo không thể coi thường, sao thí chủ không đem thiện niệm ra?”.

Trương Nhất Bình thối lui một bước, nói:

“Đem cái gì?”.

Đại Phương thiền sư nói:

“Huyết Trì đồ!”.

Trương Nhất Bình lắc đầu cười lạnh:

“Đại sư đừng ngậm máu phun người!”.

Đại Phương thiền sư hơi nhíu mày, nói với vẻ trang nghiêm:

“Nếu thí chủ không chịu lấy bản đồ ra, đừng trách lão nạp thất lễ”.

Trương Nhất Bình nói:

“Ông định làm gì?”.

Đại Phương thiền sư hơi có sắc giận, nói:

“Chẳng lẽ lão nạp không thể lục soát người ông?”.

Trương Nhất Bình đưa hai tay, nói:

“Nếu đại sư có lòng nghi ngờ, vậy xin mời hãy lục soát”.

Đại Phương thiền sư hơi chần chừ, quay đầu nhìn bốn hòa thượng mặc cà sa màu vàng:

“Các người hãy lục soát kỹ càng trên người vị thí chủ này, nhưng không được thô lỗ”.

Bốn nhà sư ấy cúi người nhận lệnh, cùng bước tới bên cạnh Trương Nhất Bình.

Trương Nhất Bình chẳng thèm để ý, vén áo lên nói; “Mời bốn vị đại sư cứ lục soát cho kỹ”.

Bốn nhà sư cùng ra tay, nhưng cũng chẳng thấy gì. Trương Nhất Bình đợi bốn nhà sư lục soát xong thì mới cười lạnh một tiếng:

“Bốn vị sư phụ có cần lục soát dưới vớ của tại hạ không?”.

Đại Phương thiền sư là bậc chưởng môn của một phái, bao giờ cũng là người quang minh chính đại, nghe lời mỉa mai của Trương Nhất Bình thì không khỏi hơi nóng mặt, lòng thầm nhủ:

“Huyết Trì đồ liên quan đến sự tồn vong giữa chính và tà trong võ lâm, không thể coi thường. Dù cho ngày sau có bị võ lâm đồng đạo chê trách, cũng phải làm cho rõ ràng”. Thế rồi mới nghiến răng, nói:

“Nếu thí chủ đã nói như thế, lão nạp cung kính không bằng tuân lệnh”.

Lời nói khiến cho mọi người trong trường đều bất ngờ, bốn nhà sư mình khoác cà sa vàng càng ngạc nhiên hơn, chỉ cảm thấy lời nói của chưởng môn lúc này rất khác với ngày thường. Phương Triệu Nam chợt sinh cảm giác bất an, nhủ thầm:

“Dù Trương Nhất Bình có lấy Huyết Trì đồ hay không, nhưng ông ta là người có danh tiếng trong võ lâm Giang Nam, nỗi nhục cởi giày này làm sao có thể nuốt trôi được?”.

đang định lên tiếng ngăn cản, chợt nghe Đại Phương thiền sư nói với bốn hòa thượng mặc cà sa vàng:

“Sao các người vẫn đứng yên đấy, chả lẽ không nghe lệnh của ta?”.

Trương Nhất Bình vốn chỉ nghĩ mỉa mai Đại Phương thiền sư, nhưng nào ngờ khéo quá hóa vụng, bị một bậc cao tăng được võ lâm đồng đạo kính ngưỡng như Thái Sơn Bắc Đẩu ra lệnh lục soát giày của ông ta, trong lòng cảm thấy rất khó chịu.

Nhưng lúc nãy bản thân ông ta vừa mới nói ra lời ấy, cho nên chỉ đành cởi giày ra.

Trương Nhất Bình cởi giày ra, giơ cao trong tay, lạnh lùng nói:

“Các vị hãy xem kỹ đây, có chỗ nào cần lục soát nữa không?”.

Đại Phương thiền sư quay mặt sang một tiểu hòa thượng, lạnh lùng nói:

“Làm mất đồ đạc của khách, không thể bù tội được, tạm ghi hình phạt ba năm diện bích, mau trở về núi Tung Sơn, lập tức giao cho giới trì viện xử lý”.

Tiểu hòa thượng ấy chắp tay cúi người:

“Đệ tử tạ sư tôn từ bi”.

Đại Phương thiền sư đưa mắt nhìn Tụ Thủ Tiều Ẩn, nói:

“Sao Sử huynh đến đây?”.

Tụ Thủ Tiều Ẩn nghe thế thì mặt lộ vẻ giận dữ, nhíu mày đang định tổ cái giận ra, chợt thở dài một tiếng:

“Đại sư có còn nhớ lão tiều tử đã nói chăng, tại hạ đã đuổi theo kẻ này”, rồi ông ta đưa tay chỉ về phía Trương Nhất Bình. Đại Phương thiền sư lại quay sang nhìn tiểu hòa thượng ấy nói:

“Ngươi đã đi đâu?”.

Tiểu hòa thượng ấy nói:

“Đệ tử không rời nơi này một tấc”.

Đại Phương thiền sư cười lạnh nói:

“Đã một tấc không rời, tại sao không biết đồ đạc bị mất?”.

Tiểu hòa thượng ấy đáp:

“Đệ tử bị người ta điểu huyệt đạo”.

Đại Phương thiền sư cao giọng hỏi:

“Ai đã điểm huyệt đạo ngươi, chả lẽ ngươi không nhớ gì cả sao?”.

Tiểu hòa thượng ấy cúi đầu đáp:

“Người ấy ra tay rất nhanh, đệ tử chỉ nghe được tiếng gió, chưa kịp quay đầu lại thì huyệt đạo đã bị điểm”.

Đại Phương thiền sư lộ vẻ buồn bã trên mặt, im lặng chẳng nói gì cả.

Tất cả những người ở đây đều là bậc cao nhân trong võ lâm, bất cứ ai cũng không thể nén nỗi cái nhục bị kẻ gian đánh cắp đồ đạc như trước mũi. Đã không tìm được manh mối từ tiểu hòa thượng ấy, nhưng lại không thể lục soát hết tất cả mọi người, chỉ e rằng nếu xử lý có sai sót, chắc chắn sẽ dẫn đến thế cuộc tàn sát lẫn nhau.

Tiêu Dao Tử, Tụ Thủ Tiều Ẩn tựa như đã thấy chỗ khó của Đại Phương thiền sư, đồng thanh nói:

“Đại Phương thiền sư không cần ưu phiền chuyện này, việc gấp rút trước mắt là phải ứng phó với bọn Minh Nhạc, dù tung tích Huyết Trì đồ ở đâu, chúng ta hãy đợi sau đại hội Minh Nhạc rồi tìm cũng không muộn”.

Đại Phương thiền sư chợt mỉm cười:

“Hai vị nói rất phải …”.

Trương Nhất Bình chợt cười lớn:

“Tại hạ có thể rời khỏi nơi đây rồi chứ!” nói xong thì phóng ra ngoài. Đại Phương thiền sư giơ ngang tay phải ra định cản đường, nhưng không biết cớ gì lại rụt tay trở về. Tụ Thủ Tiều Ẩn cười lạnh một tiếng, điểm vào lưng Trương Nhất Bình một cái, một luồng chỉ phong phóng ra. Chợt thấy Trương Nhất Bình hơi rung người, đột nhiên dừng lại, quay đầu nhìn bọn họ rồi bước nhanh ra. Phương Triệu Nam nghĩ đến tình xưa, vội vàng chạy đuổi theo.

Chỉ thấy bóng người lướt một cái, Tụ Thủ Tiều Ẩn chợt rê ngang qua nhanh như cơn gió, chặn lại nói:

“Y đã bi ta dùng Hỗn Nguyên khí công phóng ra một luồng chỉ phong, từ xa đánh vào huyệt Trung Ủy trên Thái Âm Phế Kinh, sau mười hai canh giờ thương thế sẽ phát tác. Dù cho được cứu chữa đúng cách, cũng phải mất ba tháng trở lên mới có thể đả thông kinh mạch, lúc đó chúng ta đã đến dự đại hội ở Minh Nhạc, sống chết thắng thua đã phân, lại tìm đến y cũng không muộn, giờ đây cứ thả cho y đi thôi!”.

Phương Triệu Nam thở dài, buồn bã nói:

“Tại hạ không phải đuổi theo ông ta”.

Đại Phương thiền sư nhìn thẳng vào Phương Triệu Nam, nghiêm mặt nói:

“Lão nạp có một chuyện muốn thương lượng với thí chủ”.

Phương Triệu Nam nói:

“Lão thiền sư hãy chỉ giáo, chỉ cần tại hạ làm được, quyết không từ chối”.

Đại Phương thiền sư nói:
“Thí chủ hãy tạm thời giữ bí mật chuyện Huyết Trì đồ bị mất, lão nạp vẫn âm thầm tìm cho thí chủ, nếu có manh mối sẽ thông báo ngay cho thí chủ. Nếu chuyện này để lộ ra chỉ e sẽ dấy lên một cuộc hỗn loạn, lão nạp cũng biết chuyện này có lẽ đã không hợp tình hợp lý, nhưng mong thí chủ hãy vì đại cuộc mà chấp nhận yêu cầu của lão nạp.

Phương Triệu Nam thầm nhủ:

“Huyết Trì đồ ấy đã mất, hy vọng tìm được rất mong manh, nếu để lộ ra cũng chẳng ích gì, chi bằng cứ chấp nhận cho xong”. Thế rồi mới ôm quyền nói:

“Lão thiền sư đã căn dặn như thế, vãn bối nào dám không nghe”.

Đại Phương thiền sư chắp tay cười rằng:

“Thí chủ biết đến đại cuộc như thế, lão nạp cảm kích không nguôi, nay sắp đến đại hội Minh Nhạc, thời gian quý báu, có nhiều chuyện cần phải giải quyết, chỉ e khó tìm ra tung tích Huyết Trì đồ trước khi đến dự đại hội Minh Nhạc …” ông ta hơi thở dài, nói:

“Nếu chúng ta có thể thuận lợi vượt qua đại hội Minh Nhạc, lão nạp sẽ ra lệnh cho đệ tử toàn phái Thiếu Lâm dốc hết sức mình truy tìm bản đồ này, một khi tìm được chắc chắn sẽ trả lại cho thí chủ”.

Phương Triệu Nam chợt cảm thấy trong mấy đêm ngắn ngủi này, địa vị và thân phận của mình trong võ lâm đã tăng lên rất nhiều. Người trong võ lâm thiên hạ có thể được chưởng môn phương trượng của chùa Thiếu Lâm tôn trọng như thế có thể trên đầu ngón tay, cho nên chàng mới ôm quyền nói:

“Lão thiền sư một lời nặng như chín đỉnh, vãn bối xin bái tạ trước”.

Đại Phương thiền sư quay đầu lại nhìn Tụ Thủ Tiều Ẩn cười:

“Thất Tinh trận thế của Sử huynh không biết phải mất bao lâu mới tập được, đại hội Minh Nhạc lần này phải mượn rất nhiều sức, hy vọng rằng …”.

Tụ Thủ Tiều Ẩn nghiêm trang nói:

“Trong đời lão Tiều tử này chưa bao giờ để lại chuyện khiến cho người ta nhớ trong lòng, đầy là lần đầu tiên lão Tiều tử làm chuyện vì người khác. Đại sư hãy yên tâm, chỉ cần thời gian năm ngày, trận thế này sẽ được hoàn thành”.

Đại Phương thiền sư chắp tay cười:

“Thời gian của Sử huynh rất quý báu, lão nạp không dám làm phiền nữa”. Thế rồi mới chắp tay làm lễ, cùng Tiêu Dao Tử sánh vai bước ra.

Khi Phương Triệu Nam trở về trong phòng, Trần Huyền Sương đã đứng đợi, chỉ thấy nàng ngẩng đầu nhìn trần nhà, mặt mỉm cười, tựa như trong lòng đang có chuyện rất vui sướng. Phương Triệu Nam không khỏi nhíu mày, hỏi:

“Sương sư muội, muội đang có chuyện gì vui thế?”.

Trần Huyền Sương mỉm cười, chậm rãi đứng dậy, không đáp câu hỏi ấy mà nói rằng:

“Khi sư muội của huynh còn sống, hai người chắc là thân thiết nhau lắm đúng không?”.

Câu hỏi ấy rất bất ngờ, dù cho Phương Triệu Nam là người lanh lẹ cũng phải đứng ngây ra một lúc rồi mới đáp:

“Đúng vậy, sao sư muội chợt nói đến chuyện này?”.

Trần Huyền Sương thản nhiên cười:

“Đáng tiếc là nàng ta đã chết!”.

Phương Triệu Nam lại ngạc nhiên, nói:

“Chúng ta đã chôn xác nàng ở Bão Mục Cương, chả lẽ sư muội đã quên?”.

Trần Huyền Sương chợt nghiêm mặt, hỏi rõ ràng từng chữ:

“Nếu ở núi Cửu Cung, muội không ra tay cứu huynh, huynh có còn sống đến ngày nay không?”.

Phương Triệu Nam chỉ cảm thấy sát cơ của nàng đột nhiên nặng nề, trong lòng không khỏi kinh hãi, thầm nhủ:

“Nàng vốn là một thiếu nữ trong sáng ngây thơ không hiểu đến chuyện hiểm ác của giang hồ, tuy lòng yêu hận mạnh hơn người thường, hướng cũng không đến nỗi chợt vui chợt giận như thế này, không biết có phải vì bị gió lạnh đêm qua mà đã sinh bệnh hay không?” nhưng miệng thì nói rằng:

“Đúng vậy, nếu không phải Sương sư muội ra tay tương cứu, huynh đã sớm chôn xác ở núi Cửu Cung”.

Trần Huyền Sương lạnh lùng nói:

“Gia gia của muội đã truyền võ công cho huynh, giúp huynh chỉ trong mấy ngày ngắn ngủi mà trở thành một cao thủ thuộc hàng nhất lưu trên võ lâm, ơn đó đối với sư huynh có lớn không?”.

Phương Triệu Nam nói:

“Ơn truyền võ nghệ của Trần lão tiền bối nặng như núi, suốt đời huynh cũng khó quên!”.

Trần Huyền Sương nhìn thẳng vào mặt Phương Triệu Nam một hồi rồi chợt tuôn hai dòng nước mắt, buồn bã nói:

“Đó đều là chuyện quá khứ, nhắc lại cũng vô dụng”.

Phương Triệu Nam vẫn chưa hết lo lắng vì thấy Ngôn Lăng Phủ vì mất bản đồ, lò luyện đơn bị phá hủy, bực tức đến nỗi phát điên, nay thấy Trần Huyền Sương chợt vui chợt giận như thế, trong lòng lo lắng lắm. thế rồi mới nắm đôi bàn tay mềm mại của nàng, hạ giọng nói:

“Sương sư muội, huynh có chỗ nào không đúng?”.

Trần Huyền Sương ngẩn người ra, ấp úng chứ không nói được một lời nào, một lát sau mới buồn bã nói:

“Muội đã nghĩ suốt đêm mới ra được …”.

Phương Triệu Nam ngạc nhiên:

“Muội đã nghĩ ra điều gì?”.

Trần Huyền Sương nói:

“Muội nghĩ thiếu nữ áo trắng đêm qua trong đại điện trông rất xinh đẹp”.

Phương Triệu Nam hiểu ngay ý nàng, tim đập thình một cái, định lên tiếng, Trần Huyền Sương đã cướp lời:

“Có phải nàng ta đối với huynh rất tốt không?”.

Phương Triệu Nam thầm nhủ:

“Lúc này nàng đang kích động, ngàn vạn lần không thể làm tổn thương trái tim nàng”. Thế rồi mới cười:

“Chúng tôi tuy có duyên gặp mặt vài lần …”.

Trần Huyền Sương nói:

“Cho nên huynh không cần muội nữa, nếu biết sớm như thế muội đã không cứu huynh trong núi Cửu Cung, trước tiên để người khác giết huynh, sau đó muội lại giết chúng báo thù cho huynh”.

Phương Triệu Nam giật mình, nhủ thầm:

“Nàng tính tình bốc đồng như thế sau này sống với nhau chắc chắn sẽ khó ứng phó …”.

Chợt Trần Huyền Sương thở dài một tiếng:

“Sau này khi gặp lại thiếu nữ áo trắng ấy, muội sẽ vạch vài đường trên khuôn mặt ả, xem ả có còn đẹp hay không!”.

Phương Triệu Nam vốn định cãi lại mấy câu, nhưng chợt nhớ lại đêm qua mình thực sự lạnh nhạt với nàng, cũng khó trách nàng đau lòng, trong lòng không khỏi áy náy. Trong trong nhất thời chàng không nghĩ ra được lời nào an ủi, trầm ngâm một hồi rồi mới nói:

“Trước mắt trong võ lâm đầy sát cơ, thiên hạ cao thủ đều vượt bỏ ân oán cá nhân vì đại hội Minh Nhạc. Nay chúng ta đã dự đại hội Thái Sơn, chắc chắn sẽ đi cùng quần hào đến Minh Nhạc, chuyến đi này sống chết chưa biết được, đâu thể nghĩ đến chuyên nhi nữ tư tình, huynh dù cho muốn suốt đời sống cùng sư muội, chỉ e cũng khó được như ý muốn”.

Trần Huyền Sương chưa hiểu việc đời, đâu biết được đó là những lời lấp liếm của chàng, chỉ hơi trầm ngâm, nở nụ cười nói:

“Gia gia của muội có một bộ kiếm pháp uy lực rất lớn. Nhưng hai người cùng dùng mới được, chúng ta hãy mau chóng luyện tập bộ kiếm pháp này, khi đến Minh Nhạc có thể cùng dùng để khắc địch”.

Phương Triệu Nam cười:

“Muội đã học được bộ kiếm pháp này từ lúc nào, sao huynh không biết?”.

Chàng chỉ muốn tạm thời làm cho nàng vui cho nên lời nói rất dịu dàng, Trần Huyền Sương rốt cuộc vẫn chưa hết tính trẻ con, thấy chàng như thế thì chợt cảm thấy vui sướng, nghiêng người nép vào lòng Phương Triệu Nam cười rằng:

“Nam ca ca, huynh có thực sự thích muội không?”.

Phương Triệu Nam nói:

“Đương nhiên thật sự thích muội”.

Trần Huyền Sương nói:

“Đêm qua huynh đối với muội lạnh nhạt, muội càng nghĩ càng giận, chợt nhớ lúc trước huynh đối với muội rất tốt, tại sao lúc này lại hư như thế? Chắc chắn là vì thiếu nữ áo trắng, ả xinh xắn như thế, dù ai thấy cũng thích, muội suốt đêm qua không ngủ, định tìm huynh gây một trận …”.

Phương Triệu Nam mỉm cười, nói:

“Lúc này muội còn giận không?”.

Trần Huyền Sương lắc đầu, nói:

“Muội biết huynh quan tâm muội như thế, đương nhiên không giận nữa”. Nàng hơi ngập ngừng rồi lại nói:

“Khi đến tìm huynh, muội đã tính sẵn trước! Muội sẽ cố ý gây với huynh một trận, nếu huynh thật sự không thích muội, muội sẽ rời khỏi nơi này …”.

Phương Triệu Nam cười rằng:

“Thế gian rộng lớn, một mình muội sẽ đi đâu?”.

Trần Huyền Sương chớp mắt, cười rằng:

“Đương nhiên là có nơi đi, muội sẽ tìm một nơi không có người đến, luyện võ công cho thật tốt rồi ra giang hồ, trước tiên tìm ả thiếu nữ áo trắng ấy giết chết ả đi, sau đó tìm đến huynh …”.

Phương Triệu Nam nói:

“Muội tìm thiếu nữ áo trắng, vậy có cần giết huynh không?”.

Trần Huyền Sương nói:

“Điều đó muội không biết, trong lòng muội chắc chắn sẽ hận huynh, hỡi ơi! Nhưng không biết có giết được huynh không …” nàng chợt bật cười, nói:

“Dù cho không giết huynh, muội cũng sẽ tìm một nơi thâm sơn cùng cốc, nhốt huynh ở đấy, không cho huynh ra giang hồ nữa”.

Phương Triệu Nam nghe thế thì trong lòng chợt run sợ, nhủ thầm:

“Lòng yêu hận của thiếu nữ này thật mạnh mẽ, nếu không phải bạn thì tức là địch, tình yêu càng sâu, lòng ghen tuông càng nặng …”.

Trần Huyền Sương thấy chàng trầm ngâm không nói, dịu dàng hỏi:

“Nam ca ca, huynh có sợ không?”.

Phương Triệu Nam mỉm cười:

“Muội nhốt huynh ở chốn thâm sơn cùng cốc, có để huynh chết đói không?”.

Trần Huyền Sương lắc đầu:

“Muội sẽ ở cùng với huynh, mỗi ngày sẽ làm cơm ngon nhất cho huynh ăn, chúng ta suốt đời sẽ không ra khỏi sơn cốc”.

Phương Triệu Nam nói:

“Chả lẽ muội bắt huynh phải ở suốt đời trong sơn cốc sao?”.

Trần Huyền Sương nói:

“Chúng ta sẽ bạc đầu bên nhau, đồng sinh cộng tử, nếu huynh chết trước, muội sẽ tự sát bên cạnh huynh”.

Phương Triệu Nam nhíu mày:

“Vậy nếu muội chết trước thì sao?”.

Trần Huyền Sương nói:

“Trước tiên muội sẽ giết chết huynh, sau đó mới chết!”.

Phương Triệu Nam trong lòng cảm động lắm, nhưng lại kinh sợ, nhủ rằng:

“Người như nàng trên dời thật hiếm có, chỉ là thủ đoạn có chút tàn khốc. Nếu nàng cứ nghĩ mãi như thế, cũng khó đảm bảo nàng sẽ không làm điều này, sau này phải tìm cách sửa đổi tính tình bốc đồng này của nàng mới được”. Một ý nghĩ lướt qua, thế rồi mới mỉm cười nói:

“Đại hội Minh Nhạc lần này không những có liên quan đến đại cuộc võ lâm về sau, cũng liên quan đến sự sống chết của chúng ta, những người tham gia đại hội lần này đều là bậc cao thủ. Trần lão tiền bối chỉ truyền võ công cho huynh có nửa tháng nhưng đã khiến huynh từ một kẻ vô danh tiểu tốt trở thành bậc cao thủ, sư muội từ nhỏ đi theo ông ta, chắc chắn đã học được rất nhiều võ công kỳ ảo, mong rằng trong kỳ đại hội này có thể đại triển thần oai, nhất cử thành danh”.

Trần Huyền Sương nhướng mày, nhoẻn miệng cười:

“Bộ kiếm thuật song kiếm hợp bích ấy uy lực rất lớn, chúng ta hãy mau luyện tập cho thành thục, đến lúc ấy sẽ liên thủ ra tay”.

Nói xong kéo Phương Triệu Nam chạy ra, vừa đọc kiếm quyết, vừa múa kiếm thế từng chiêu chậm rãi đánh ra.

Thời gian qua rất mau, chỉ trong chớp mắt mà đã mười ngày.

Trong mười ngày ấy, Phương Triệu Nam và Trần Huyền Sương sớm tối khổ luyện kiếm thuật, chẳng rời một bước khỏi nơi mình ở, thức ăn và đồ dùng đều do tiểu hòa thượng ấy đem tới. Thật ra trong vòng mười ngày, quần hào đa số đều luyện lại tuyệt kỹ, trên đỉnh Minh Nguyệt, kiếm khí ngất trời.

Hôm nay trời đã về chiều, Trần Huyền Sương và Phương Triệu Nam đang luyện kiếm pháp thì chợt một tiểu hòa thượng vội vàng chạy tới, chắp tay nói với hai người:

“Tệ phương trượng bày yến ở trong điện, mời hai vị đến dự”.

Phương Triệu Nam cúi đầu nói:

“Chúng tôi sẽ lập tức đến”.

Tiểu hòa thượng ấy lại chắp tay, thối lui ra, nhưng vẫn chưa đi, xem bộ là muốn đợi hai người cùng đi.

Phương Triệu Nam nhìn tiểu hòa thượng ấy, lòng thầm nhủ:

“Nhìn bộ dạng của hắn ta, chắc là có chuyện gì gấp gáp”. Thế rồi mới kéo Trần Huyền Sương nói:

“Đi thôi!” tiểu hòa thượng ấy xoay người dẫn đường chạy vội ra, hai người đuổi sát theo sau đến điện chính.

Trong điện đèn đuốc sáng trưng, yến tiệc đã bày sẵn, ở ngoài điện toàn là tăng lữ Thiếu Lâm, mỗi người tay đều cầm binh đao, canh giữ rất nghiêm ngặt như đang chờ đại địch đến.

Quần hào đã ngồi vào chỗ, Đại Phương thiền sư mặt trang nghiêm, chắp tay chào hai người.Phương Triệu Nam kéo tay áo Trần Huyền Sương, hai người đến chỗ trống trong điện ngồi xuống.

Đại Phương thiền sư bưng chén rượu trước mặt, trầm giọng nói:

“Trong những ngày này, lão nạp đã sai đệ tử đi khắp nơi thám thính tung tích Minh Nhạc, hôm nay có tin về, đã tìm được hai nơi đáng nghi ngờ, tuy bốn đệ tử đã mất mạng, nhưng coi như cũng tìm ra được một chút manh mối”.

Quần hào ai nấy đều phấn chấn, ngưng thần lắng nghe. Bởi vì những người này đều là những kẻ đi nhiều hiểu nhiều, nhưng chẳng ai biết gì về Minh Nhạc.

Đại Phương thiền sư đưa mắt nhìn quần hào một vòng rồi trang nghiêm nói:

“Giờ đây vẫn còn cách tết Đoan Ngọ hơn bốn mươi ngày, nhưng trận Thất Tinh Độn Hình của Sử huynh đã luyện tập thành thục, các vị đều là bá chủ một phương, chuyện trong nhà chắc bận rộn lắm. Theo ý lão nạp nghĩ, chúng ta nên đến Minh Nhạc trước kỳ hẹn, một là có thể cắt đứt được cuộc thị phi này, phân ra thắng bại, các vị cũng sẽ sớm trở về nhà, hai là đến sớm sẽ khiến cho kẻ địch trở tay không kịp”.

Tụ Thủ Tiều Ẩn chợt đứng dậy:

“Không biết đệ tử của quý phái tìm ra được hai nơi đáng nghi nào, cách đây bao xa?”.

Đại Phương thiền sư thở dài:

“Nếu không phải nhờ tấm bản đồ thiếu nữ áo trắng để lại, chỉ e chúng ta cũng khò tìm được Minh Nhạc. Nói ra các vị cũng sẽ cảm thấy bất ngờ, Minh Nhạc ấy chính là một u cốc cách đây không xa, cho nên lão nạp muốn sau buổi tiệc này, chúng ta hãy đến đấy ngay”.

Chợt một ông già mập lùn đứng dậy nói:

“Lão phu đã chờ đợi ở đây cả mười ngày, nếu các người không sớm ngày tìm ra Minh Nhạc, xin thứ lão phu không thể đợi nữa. Hai năm sau, tại hạ sẽ dắt cao thủ Tây Vực trước tiên tìm đến chùa Thiếu Lâm Tung Sơn, nếu có thể thắng được phái Thiếu Lâm các người, rồi sẽ đại chiến quần hào Trung Nguyên các người, nếu lão phu không thể thắng được đảm bảo trong vòng một trăm năm người Tây Vực không bước vào Trung Nguyên một bước”.

Quần hào quay đầu nhìn lại, thấy người đang lên tiếng chính là kẻ đã thi triển Vô Ảnh thần quyền, quần hào biết tính tình lão ta rất nóng nảy, nếu một lời không hợp tai thì sẽ lập tức ra tay. Tuy cảm thấy khẩu khí của lão ta cuồng vọng, nhưng cũng chẳng ai lên tiếng.

Đại Phương thiền sư uống cạn chén rượu trong tay rồi nói:

“Nếu đêm nay lão nạp không thể tìm ra Minh Nhạc, xin mời thí chủ cứ tùy tiện, chùa Thiếu Lâm sẽ đợi cái hẹn hai năm ấy”.

Quần hào đều bưng rượu trước mặt uống cạn.

Phương Triệu Nam đưa mắt nhìn quanh, quần hào đều tề tựu đầy đủ nhưng lại không thấy Tri Cơ Tử Ngôn Lăng Phủ, nén không được hỏi:

“Không biết Tri Cơ Tử Ngôn Lăng Phủ đi đâu rồi?”.

Đại Phương thiền sư nói:

“Chứng điên loạn của Ngôn Lăng Phủ không thể trị khỏi trong khoảng thời gian ngắn, ở lại đây cũng vô dụng, đã được lão nạp sai người đưa về chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn …” ông ta hơi ngừng rồi nói:

“Các vị hãy ăn cho no, lão nạp định đến canh một sẽ đến Tuyệt Mệnh cốc”.

Quần hào đều nâng đũa, bữa ăn ấy trôi qua lặng lẽ, đến khi ăn xong thì trời vẫn chưa đến canh một. Đại Phương thiền sư suy nghĩ chu đáo, đã sớm sai người chuẩn bị bình nước, lương khô, mỗi người một phần đủ dùng trong vòng ba ngày.

Phương Triệu Nam lấy hai phần, hạ giọng nói với Trần Huyền Sương:

“Sư muội, còn có thứ gì cần dùng hãy mau lấy đến, chúng ta sắp lên đường”.

Trần Huyền Sương lắc đầu cười:

“Muội đã chuẩn bị xong xuôi cả!”.

Đại Phương thiền sư chậm rãi đứng dậy, cũng lấy một phần lương khô, miệng nói rằng:

“Lão nạp e rằng thức ăn trong Minh Nhạc có độc, cho nên đã chuẩn bị ba ngày lương khô, mỗi người lấy một phần …” ông ta thở dài nhẹ một tiếng rồi nói:

“Thời gian ba ngày đã đủ phân thắng bại tồn vong, lão nạp sẽ đi trước dẫn đường cho mọi người”. Quần hào đầu đứng dậy, bước theo sau Đại Phương thiền sư.

Phương Triệu Nam, Trần Huyền Sương đi cùng với Cát Hoàng, Cát Vĩ, mười tám nhà sư khoác cà sa màu vàng, tay cầm thiền trượng và mười tám nhà sư khoác cà sa màu đỏ lưng cắm giới đao đi sau cùng.

Đi qua hai rặng núi, Đại Phương thiền sư chợt nhanh bước, quần hào đi cùng ai nấy cũng thi triển khinh công vọt qua những nơi gập ghềnh.

Mọi người tuy đông nhưng đều là cao thủ thuộc hàng nhất lưu trong võ lâm, cho nên tốc độ tuy nhanh nhưng không hề phát ra tiếng động. Chỉ cảm thấy thế núi càng lúc càng hiểm trở, một con đường như sợi dây cứ vắt lòng vòng giữa vách núi cheo leo, gió núi thổi mạnh như sóng vỗ vào trong tai, tiếng bước chân chốc chốc lại đánh động bọn rắn rết từ trong phóng ra, lướt qua người. Lại đi khoảng một bữa cơm, quần hào đi đến một cửa cốc địa thế hiểm trở.

Đại Phương thiền sư dừng bước, quần hào bước lên vây quanh. Lúc này đêm đã càng khuya, một vầng trăng cong bị mây che khuất, trước mặt là một khoảng không hoang vắng, gió núi thối qua áo quần bay phất phới.

Đại Phương thiền sư chậm rãi lấy mảnh khăn màu trắng, nhìn kỹ ở dưới ánh trăng một hồi rồi xé vụn tấm bản đồ ấy, ném vào trong bụi cỏ, nói:

“Chính là sơn cốc này …” rồi cất bước đi trước.

Quần hào nối đuôi theo sau, đi vào trong cốc.

Đột nhiên bốn nhà sư từ ở phía sau phóng nhanh tới, bảo vệ hai bên Đại Phương thiền sư.

Sơn cốc này hoang vắng lạ thường, đi được hai mươi trượng, lập tức cảm thấy gió rét căm căm. Lúc này, tâm trạng quần hào cũng rất phức tạp, nhưng không ai lên tiếng, trong sự im lặng ấy ẩn chứa nỗi lo lắng khôn cùng. Đi được mấy ngã núi, địa thế chợt thay đổi, những dãy núi nhô cao đã che khuất vầng trăng cong, sơn cốc chợt trở nên tối tăm. Ở nơi sâu thẳm của sơn cốc, ngọn gió lạnh đêm khuya thổi tới làm cỏ cây hai bên đường kêu lào xào. Chợt nghe Tiêu Dao Tử kêu à một tiếng, đưa tay chỉ ngọn núi ở phía trước nói:

“Đó là gì?”.

Quần hào đều nheo mắt nhìn tới, chỉ thấy trên vách núi có ẩn hiện mấy chữ:

“Tử Vong chi cốc!” trong đêm tối, dòng chữ ấy phát ra ánh sáng lấp lánh càng tăng thêm không khí kinh dị. Đại Phương thiền sư chắp tay trước ngực, hạ giọng niệm một tiếng Phật hiệu, rồi nói:

“Chắc là không sai!” rồi đột nhiên bước nhanh tới phía trước. Quần hào theo sát ở phía sau.

Sau một hồi thì mọi người đến dưới chân dãy núi, một vách núi nhỏ chắn ngang đường. Ngẩng đầu nhìn lên, vẫn là bốn chữ “Tử Vong chi cốc” đang phát ra ánh sáng lấp lánh, chỉ là dòng chữ ấy được treo cao đến hàng trăm trượng cho nên không biết là vật gì tạo thành. Đại Phương thiền sư ngửa mặt thở dài một hơi, trầm ngâm không nói.

Tiêu Dao Tử chợt hạ giọng nói:

“Bây giờ là lúc nào?” Tụ Thủ Tiều Ẩn đứng một bên ngẩng đầu nhìn sắc trời, nói rằng:

“Đã đến canh ba”.

Tiêu Dao Tử nói:

“Bốn chữ ‘Tử Vong chi cốc’ rõ ràng do người tạo thành, nếu ta nghĩ không lầm, nơi này tám phần chính là Minh Nhạc mà chúng ta muốn tìm!”.

Đại Phương thiền sư nói tiếp:

“Không biết tại sao lại đến ngõ cụt, không còn đường vào núi nữa”.

Tiêu Dao Tử nói:

“Lúc này trời đã khuya, địch tối ta sáng, dù cho có tìm ra đường vào núi cũng không nên đi vào nữa, chi bằng hãy nghỉ ngơi ở đây đợi lúc trời sáng thì sẽ tìm đường vào cốc cũng không muộn”.

Đại Phương thiền sư hơi trầm ngâm rồi nói:

“Tiêu huynh nói không sai, chúng ta hãy nghỉ ngơi ở đây!” thế rồi ngồi xuống xếp bằng trước, vận khí điều tức. Quần hào đều ngồi xuống ngay tại chỗ, ai nấy đều nhắm mắt dưỡng thần.

Phương Triệu Nam và Trần Huyền Sương ngồi sánh vai bên nhau, nhắm mắt điều tức một hồi Trần Huyền Sương chợt ghé vào tai Phương Triệu Nam, thì thầm rằng:

“Nam ca ca, trong lòng muội có một chuyện, không cho ca ca biết, cứ cảm thấy không an”.

Phương Triệu Nam ngạc nhiên:

“Chuyện gì?”.

Trần Huyền Sương thì thầm cười:

“Chính muội đã lấy Huyết Trì đồ!”.

Phương Triệu Nam giật mình, nói:

“Cái gì?”.

Trần Huyền Sương mỉm cười, ghé vào tai chàng nói:

“Huynh đừng lo, không phải muội đánh cắp của huynh, mà muội đã đánh cắp từ tay người khác!”.

Phương Triệu Nam nói:

“Ai?”.

Trần Huyền Sương nói:

“Chính là vị Trương sư bá của huynh!”.

Hai người nói chuyên tuy nhỏ, nhưng những người trong trường đều là những kẻ mắt sáng tai thính, không ít người quay đầu nhìn về phía bọn họ. Trần Huyền Sương nói:

“Đừng nói nữa! Người ta đang nhìn!”.

Phương Triệu Nam cũng cảm thấy đây là chuyện rất lớn, nếu tiết lộ ra lúc này thì sẽ dẫn tới một trận phong ba, chàng hơi gật đầu rồi không hỏi tiếp nữa.

Trong sơn cốc tuy có năm, sáu mươi người, nhưng chẳng nghe một tiếng hơi thở nào cả. Các nhà sư mình khoác cà sa màu vàng, tay cầm thiền trượng chia nhau tản ra canh giữ bốn bên quần hào. Mọi người đều chuẩn bị tâm lý cho một cuộc quyết đấu sinh tử tồn vong, thời gian nửa đêm này về mặt cảm giác rất quan trọng. Cho nên ai nấy đều ngưng thần vận khí, điều tức tinh thần.

Chỉ có Đại Phương thiền sư bề ngoài vẫn nhắm mắt vận khí dưỡng hơi thở, nhưng thực tế ông ta đang suy nghĩ tấm bản đồ mà Mai Giáng Tuyết đã trao cho. Ông ta tuy đã xé vụn tấm bản đồ ấy, nhưng đã ghi nhớ mỗi chi tiết nhỏ trên tấm bản đồ, ngồi ngẫm nghĩ một hồi, quả nhiên ông ta đã nhớ được một chút manh mối. Mở mắt nhìn ra, thấy quần hào đều đang nhắm mắt dưỡng hơi thở, ông ta nhủ thầm:

“Ở đây đều là những nhân vật nổi danh trên giang hồ, dù cho Nhạc chủ Minh Nhạc là kẻ ba đầu sáu tay, chỉ e cũng khó chống nổi sự liên thủ của nhiều cao nhân như thế này”.

Nghĩ đến đây, trong lòng cảm thấy an ủi lắm, ông ta chậm rãi nhắm mắt lại, vận khí hành công.

Ông ta công lực thâm hậu, chỉ trong chốc lát thì đã cảm thấy tinh thần phấn chấn.

Mở mắt nhìn ra, trời đã ửng sáng, ở đằng Đông một mảng màu bạc xuất hiện, quần hào đều đã vận công xong một vòng, ai nấy tinh thần xung mãn, mặt mày rạng rỡ.

Đại Phương thiền sư đứng dậy, ngẩng đầu nhìn thế núi trước mặt, quả nhiên thấy ở trong mảnh rừng hoang xuất hiện có một hàng thương tùng đều tăm tắp, tựa như có người trồng.

Hàng thương tùng ấy chẳng khác gì với đám cây mọc trên sườn đồi, nếu không phải Mai Giáng Tuyết đã chỉ trước trong bản đồ, dù người thông minh cũng khó nhận ra. Quần hào đứng dậy, ai nấy mặt lộ vẻ trang nghiêm, không hề nghe một tiếng gì.

Tiêu Dao Tử chậm rãi bước đến bên cạnh Đại Phương thiền sư, hạ giọng nói:

“Đại sư đã nghĩ ra đường vào núi chưa?”.

Đại Phương thiền sư mỉm cười:

“Chính là hàng thương tùng dẫn thẳng lên núi kia!” Tiêu Dao Tử nheo mắt nhìn một hồi rồi nói:

“Đúng vậy, hàng thương tùng ấy cứ kéo dài liên tiếp, tựa như có người trồng”.

Đại Phương thiền sư quay đầu lại nhìn quần hào một vòng rồi cai giọng nói:

“Lão nạp đi trước một bước, dẫn đường cho các vị”. Nói xong thì bước thẳng về phía trước.

Trong số quần hào, ngoại trừ Tiêu Dao Tử, Đại Phương thiền sư, tất cả đều không biết đường vào núi, chỉ đành nối đuôi theo sau Đại Phương thiền sư.

Đoạn đường ấy hoang vắng vô cùng, dưới đất toàn là cỏ dại cao đến đầu gối và các loại cây tạp cao từ một trượng trở lên, cả một con đường nhỏ cũng chẳng thấy. Đại Phương thiền sư âm thầm để ý, vừa đếm số cây tùng, vừa chậm rãi bước về phía trước, quả nhiên đã phát giác được một bí mật. Té ra những cây tùng cách nhau một khoảng nhất định, tuy có chút sai biệt, nhưng mức độ không lớn.

Vượt qua một ngọn núi, địa thế chợt thay đổi, chỉ thấy hai bên là vách núi dựng đứng cao ngàn trượng, ở giữa là một sơn cốc rộng không qua ba thước. Trên vách núi toàn là rêu xanh, ngoại trừ ven theo vách núi mà đi chẳng ai có thể thi triển được khinh công.

Đại Phương thiền sư thầm nhủ:

“Nếu ở hai bên tuyệt cốc này mà có người mai phục, đến khi chúng ta đi qua được một nửa thì đột nhiên ra tay, dù cho chúng ta võ công có cao cường hơn nữa cũng khó né tránh”. Y nghĩ ấy lướt qua, ông ta quay đầu lại nói với quần hào:

“Các vị hãy đợi ở đây chốc lát, sau khi lão nạp vượt qua sẽ quay lại đón các vị …” rồi cất bước đi thẳng về phía trước.

Nào ngờ sự việc lại ngoài dự liệu, Đại Phương thiền sư chậm rãi vượt qua sơn cốc hiểm trở ấy mà vẫn bình an, không hề gặp nguy hiểm gì. Quần hào ai nấy đều đề khí giới bị, nối đuôi nhau kéo qua sơn cốc nhỏ hẹp ấy. Sơn cốc nhỏ hẹp mà hiểm trở này dài khoảng một trăm trượng, nếu có người đứng hai vách núi mà lăn đá xuống hoặc đánh bằng hỏa công, quần hào tuy đều là những người võ công kinh người, cũng phải bị thương quá nửa.

Ra khỏi sơn cốc, địa thế lại thay đổi, chỉ thấy mấy tượng đá mặt mày hung tợn đứng cản ngang đường. Tượng đá cao nhất trong số đó tay cầm một mảnh thạch bài, trên có ghi rằng:

“Mảnh bài chiêu hồn, mời người đến sớm!” tám chữ này đều viết bằng loại mực đỏ như máu.

Sau lưng tượng đá ấy có một thạch đài cao khoảng một trượng, trên thạch đài là một quái nhân toàn thân mặc đồ đen, tay cầm một cây phướn, tấm phướn tung bay trong gió. Chỉ thấy trên tấm phướn có viết mấy chữ lớn:

“Lúc đến có đường, lúc về không lối!” tuy giữa thanh thiên bạch nhật, nhưng tình cảnh ấy cũng khiến cho người ta kinh khiếp, có cảm giác như vào trong cõi địa ngục.

Trần Huyền Sương ngẩng đầu nhìn bốn bức tượng mặt mày hung dữ ấy, không khỏi nhíu mày nói:

“Nam ca ca, nơi đây thật ghê rợn”. Nói xong thì cúi đầu không dám nhìn nữa.

Phương Triệu Nam nói:

“Nơi đây gọi là Minh Nhạc, đương nhiên là ghê rợn âm u, muội đã sợ ư?”.

Trần Huyền Sương hơi gật đầu, nép vào người chàng.

Đại Phương thiền sư lách người bước qua mấy tượng đá ấy, nhưng ông ta vẫn để ý bức tượng toàn thân mặc đồ đen, tay cầm cây phướn dài màu trắng. Ông ta hạ giọng nói với Tiêu Dao Tử:

“Tiêu huynh, huynh hãy nhìn người cầm cây phướn kia có phải là tượng đá không?” Tiêu Dao Tử ngẩng đầu lên nhìn, lắc đầu:

“Xem ra có chút không giống”.

Chợt nghe Cửu Tinh Truy Hồn Hầu Chấn Phương quát lớn một tiếng, tay phải đánh ra một chiêu, một cái vòng vàng phóng ra, bay thẳng đến hình nhân mặc đồ đen tay cầm phướn ấy, thế bay cực kỳ nhanh, trong giống như điện chớp, khi bay có cả tiếng gió nữa. Người mặc đồ đen ngồi trên thạch đài chợt hú dài một tiếng, vung cây phướn ở trong tay, đánh ra một luồng kình phong cuộn cái vòng vàng đang bay tới vào trong cây phướn mà không hề phát ra âm thanh gì. Hầu Chấn Phương thầm thất kinh, đang định phải tay nữa thì Đại Phương thiền sư đã cao giọng nói:

“Tại hạ là Đại Phương ở chùa Thiếu Lâm, nhận được cây thoa của Nhạc chủ quý nhạc, tập hợp anh hùng khắp nơi đến đây phó ước, xin hãy thông báo giùm cho một tiếng”.

Người mặc đồ đen tay cầm cây phướn lạnh lùng đáp:

“Giờ này vẫn chưa đến tết Đoan Ngọ, chả lẽ các người đều đã chán sống đến đây chịu chết trước thời hạn ư?”.

Đại Phương thiền sư nghiêm nghị nói:

“Kỳ hạn tết Đoạn Ngọ là nhưng Nhạc chủ của quý nhạc định ra, bọn lão nạp vẫn chưa chấp nhận, cho nên không cần phải tuân thủ”.

Người mặc áo đen ấy phất cây phướn dài trong tay, phát ra một trận cuồng phong, lạnh lùng nói:

“Trước khi được giáo chủ bổn nhạc truyền lệnh, bất cứ ai cũng không được tự tiện bước vào một bước, hay là các người hãy tạm thời lui về, sống thêm vài ngày nữa, đợi đến kỳ hạn thì đến chịu chết cũng chưa muộn”.

Đại Phương thiền sư định đáp lời, Nhất Chưởng Trấn Tam Tương Ngũ Tông Hán đã nén không được, cao giọng quát:

“Đại sư cần gì phải nhiều lời với hạng người này, chúng ta đã đến đúng hẹn, chả lẽ còn sợ bọn chúng”. Y vừa nói vừa phóng tới, giơ tay bổ ra một chưởng từ xa.