Chương 20: Viếng Thăm Buổi Tối

Giả Thuyết Thứ 7

Đăng vào: 12 tháng trước

.

Sau khi mở khóa và khởi động xe, viên thanh tra nhìn đồng hồ đeo tay.

“8 giờ rưỡi. Tuyệt vời. Ransome đợi chúng ta lúc 9 giờ, tôi đã gọi cho anh ta trước lúc chúng ta đi.”

Ông quay xe vào đường Commercial, rồi nói tiếp, “Như thế, chúng ta có thời gian đánh giá lại. Tôi cho rằng nhân dạng của bộ ba bí mật ở phố Goring, đám bác sĩ Marcus, Ross và Sheldon, đã rõ ràng không cần bàn: một biên kịch trinh thám, một diễn viên và một ảo thuật gia chuyên về các trò biến mất. Không cần phải đoán tên họ nữa. Kosminski đóng vai Sheldon, chẳng còn gì phải nghi ngờ chuyện đó. Xin nhớ, nhà Minden mô tả gã cao trội hẳn lên trong khi bác sĩ Marcus và bác sĩ Ross tương ứng là ông Gordon và Ransome, hoặc ngược lại.”

“Ông bạn ơi, tôi sợ rằng trong các giả định của anh có một chút sai lầm đấy. Một trong những đối tượng nghi vấn của chúng ta không thể là tay bác sĩ nào được… nhưng hãy tạm gạt chuyện đó sang bên đã.”

“Điều gì khiến anh nói vậy?” Hurst hỏi, không hề giấu vẻ cáu kinh của mình.

“Giờ tôỉ biết cách David Cohen biến mất trong hành lang rồi, điều dó cho phép tôi củng cố luận điểm trước kia của mình. Archibald. hãy để ỳ đèn đường đi! Anh suýt lao lên vỉa hè đấy.”

“Twist, nếu anh không nói với tôi ngay về chuyện…”

“Tôi sẽ giải thích trong tối nay, tôi hứa. Nhưng, như tôi nói, đó chỉ là một chi tiết trong vụ này và chứa đựng nhiều khía cạnh vẫn chưa rõ ràng. Chẳng hạn, mấy cụm từ bí ẩn ‘Không dấu vết… không dấu vết… không máu… đáng lẽ phải có chứ. Chuyện quái gì đây nhỉ!’ có ý nghĩa gì? Kosminski đang trăn trở điều gì qua những câu đó? Thậm chí còn rất nghịch lý. Nếu đây là những nghi vấn đối với một trò bịp bị thất bại – giả định là cái chết cùa Cohen – và do đó trở thành một cái chết vô tình, thì tôi không hiểu ý nghĩa cửa mấy từ: ‘Không máu, đáng lẽ phải có chứ.’ vốn đã gợi ý về một tội ác được lên kế hoạch từ trước.”

“Tại sao anh lại bận tâm toàn những chuyện vặt, hơn nữa lại chỉ là mấy lời mơ hồ được thuật lại cho chúng ta nghe chứ? David Cohen bị giết bởi hai nhát đâm bằng dao, đây là sự thật. Tôi không phủ nhận Kosminski có thể coi đó là một trò đùa. Biết đâu hai kẻ kia đã lèo lái để anh ta tin như vậy, nhưng bọn họ có một mục đích rất cụ thể: loại bỏ Cohen, chỉ vậy thôi.”

“Lập luận của anh rất ổn, Archibald, ít nhất xét theo toàn cảnh. Nhưng tôi sợ mọi việc không đơn giản như thế.”

“Tôi chẳng bao giờ hiểu được anh, Twist,” Hurst mệt mỏi trả lời. “Cứ mỗi khi chúng ta có được một lập luận tương đối xác đáng là anh lại ra sức nghi ngờ bài bác nó. Sự thật rằng Kosminski đang tống tiền ông Gordon, hoặc Ransome, hoặc cả hai bọn họ là rất rõ ràng, phải không? Theo như tôi biết thì toàn bộ số tiền chúng ta tìm thấy trong căn hộ của anh ta không phải món quà của ông già Noel.”

“Cách đây chưa lâu anh còn chắc chắn Peter Moore là một kẻ tống tiền bậc thầy cơ mà.”

“Hay Kosminski và anh ta cùng một phe chăng?”

“Lần nào chúng ta cũng gút lại về mấy câu hỏi na ná nhau, Archibaỉd, và khả năng cũng na ná nhau: hoặc người này, hoặc kẻ kia, hoặc cả hai. Ai làm vụ này? Ai làm vụ kia? Là người này hay kẻ kia. Ai tấn công Kosminski? Một nhân chứng nói kẻ chạy trốn có tóc vàng. Người khác lại nóỉ tóc đen. Ông Gordon hay Donald Ransome? Hay có lẽ cả hai, giả định rằng cả hai lời khai đều chính xác.

“Không, thật sự thì chúng ta chưa ở chặng cuối của mớ rắc rối này đâu. Chúng ta đối mặt với một bức tranh ghép mà chưa một mảnh nào khớp với mảnh nào và số lượng các mảnh ghép tăng lên theo từng sự kiện. Chẳng hạn, xem xét hai vụ giết người, mà tôi xin nói là ‘hai vụ được cho là giết người’, bởi vì chúng ta chưa dám khẳng định đó đều là mưu sát, với nạn nhân là Peter Moore và Stanley Kosminski, kẻ tấn công là ông Gordon và Ransome.

“Nhưng, hãy lưu ý những lời Peter Moore kể với chúng ta, chúng ta có lý do giả định về điều ngược lại, về một âm mưu được dựng lên bởi hai kẻ tình nghi với mục đích hướng sự nghi vấn cho nhau. Nói cách khác, từng manh mối, từng lời khai quy kết cho kẻ này hoặc kẻ kia ‘tội danh của mình’ đều có thể là bằng chứng cho sự vô tội của hắn.”

Nhìn thẳng vào con phố phủ sương mù, Twist nói thêm, “Cho dù có một đốm sáng ở chân trời, Archibald, thì sự thật là chúng ta vẫn cứ lúng túng một cách thảm thương.”

Trái ngược với phòng khách nhà Gordon Miller, thiết kế nội thất của Donald Ransome tương đối hiện đại. Anh ta sống trong một ngôi nhà đẹp xây từ thời Victoria ở phố Curzon. Các chủ nhân đầu tiên ở đây thậm chí còn không thể tưởng tượng, nói gì đến có quan niệm, về phong cách trang trí siêu hiện đại pha lẫn lập dị mà nam tài tử này sử dụng. Tuy nhiên, lúc này, không ai trong ba người đang có mặt tỏ ra quan tâm lắm đến vấn đề trang tri.

Archibald Hurst, giống như một chiếc xe lu, liên tục truy vấn chủ nhà.

“Chúng ta bắt đầu lại nhé, anh Ransome. Anh không thể giải thích hành vi của mình vào quãng 11 giờ, là thời điểm Kosminski bị tấn công, cách tư gia của Guy Williams không xa. Vi những lý do mà chúng tôi đã giải thích với anh tối qua, chúng tôi nghi ngờ nạn nhân dính líu đến vụ sát hại David Cohen, một vụ án xem chừng anh cũng có liên can. Người ta đã nhìn thấy kẻ tấn công Kosminski, và rất lạ là nhân chứng cung cấp phần mô tả giống anh: tầm vóc trung bình, tóc vàng, mặc bộ đồ sẫm màu… giống như bộ anh mặc tối qua.”

Viên thanh tra nhoài người tới để gõ tàn thuốc rơi xuống đứng gạt tàn trên chiếc bàn kính, rồi nói tiếp, “Thêm vào đó, thực tế là thứ Sáu tuần trước có một người xuất hiện và tuyên bố với chúng tồi rằng có 50% khả năng anh sẽ sớm phạm tội. Và anh dễ dàng hiểu rằng chúng tôi thừa sức tiến hành tố tụng chống lại anh.”

Nam diễn viên ngả đầu ra sau và cười phá lên. Anh ta vỗ vỗ mái tóc vàng của mình và kéo chiếc áo vét nhung khép chặt hơn. Trong đôi mắt xanh xám của anh ta có nét giễu cợt.

“Thế mà tôi lại nghi ngờ việc ấy, ông thanh tra ạ. Ông vẫn còn tin câu chuyện về lời thách thức sao? Nó đầy những điều ngớ ngẩn đến mức chẳng ai đầu óc bình thường lậi tin vào nó cả, nhưng ông thì vẫn cứ tiếp tục. Từ một chi tiết rất nhỏ, sự thật là ông bạn tôi tình cờ chọn đúng con búp bê bác sĩ dịch hạch, ông liền suy diễn râng chúng tôi tham gia vụ sát hại David Cohen. Còn về vụ tấn công Kosminski.. có bao nhiêu cư dân Luân Đôn khớp với lời mô tả của nhân chứng và không có chứng cứ ngoại phạm vào thời điểm đó? Tôi nhường cho ông suy nghĩ.

“Và, chắc chắn, để kết tội một người là sát nhân – nếu thật sự chúng ta đang nói đến án mạng, vì Kosminski chết trong vụ tai nạn xe cấp cứu cơ mà! – gánh nặng bằng chứng sẽ thuộc về người buộc tội đấy. Và, thẳng thắn nhé, tôi chưa thấy thứ gì phù hợp để gọi là bằng chứng cả. Mà xét đến bằng chứng, ông còn gì thuyết phục hơn nữa không? Tôi thấy là không đâu.”

Ransome nói mấy từ cuối cùng kèm một nụ cười, nhưng nụ cười ấy mau chóng đông cứng trên mặt anh ta vì câu hỏi của Twist.

“Anh hẹn hò với cô Forrest bao lâu rồi, anh Ransome?”

Nam tài tử xẳng giọng đáp, “Tôi không thấy việc đó thì liên can gì tới ông.”

“Anh đang từ chối trả lời thì phải? Xem nhé, tôi thường không bận lòng về cuộc sống riêng của người khác, nhưng trong trường hợp này, điều đó có thể quan trọng đấy. Rõ ràng, anh không phối hợp.”

Ransome miễn cưỡng nói, “Tốt thôi, vài tuần nay rồi. Ông còn muốn biết gì nữa không?”

Twist tiếp tục, “Như vậy, anh thân thiết với cô ấy ngay sau cái chết của David Cohen.”

Donald Ransome ngồi thẳng người, gương mặt anh ta đỏ tía.

“Ông đang ám chỉ gì vậy?”

Twist đăm đăm nhìn anh ta một lúc lâu rồi mới trả lời, “Tôi nghĩ anh đủ thông minh để hiểu. Được rồi, nếu chủ đề này khiến anh không vui thì chúng ta tạm dừng ở đó. Tuy nhiên, tồi vẫn muốn anh nói cho chúng tôi biết về vợ chưa cưới của mình. Để tôi giải thích. Chúng tôi có dịp trò chuyện với cô ấy, tối qua, chắc anh đã biết. Cô ấy là một thiếu nữ…”

“Điều này ám chỉ đến chênh lệch tuổi tác của chúng tôi chăng?” nam tài tử buông giọng cộc lốc.

“Chắc chắn là không. Đó không phải là mối bận tâm của tôi. Cô ấy có vẻ, nói sao nhỉ? Không hẳn là buồn… Dĩ nhiên, cha dượng cô ấy vừa giết chết một người, khó lòng mong cô ấy mừng rỡ, nhưng còn một điều gì khác nữa. Dường như cô ấy đang che giấu một bí mật, nó cản trở cô ấy thể hiện sự nhiệt tình và sức sống mà người ta thường bắt gặp ở một thiếu nữ ở cùng độ tuổi.”

“Có lẽ vậy,” Ransome trả lời với ánh nhìn dò xét.

“Anh quen cô Forrest từ khi cô ấy sang đây sống, anh Ransome. Cô ấy ở đây hai năm rồi về Mỹ một thời gian, sau đó quay trở lại. Câu hỏi của tôi là: ở lần trở lại này, cô ấy khác hẳn phải không?”

Nam tài tử châm một điếu thuốc, im lặng hồi lâu, rồi nói, “Dĩ nhiên, các ông biết bà mẹ mất trong lúc Sheila ở bên kia.” Lại một lúc im lặng nữa, Ransome trầm ngâm nhìn tấm thảm dày, rồi ngước lên. “Và đúng, thưa hai ông, tấn bi kịch có ảnh hưởng sâu sắc. Ồ, cô ấy chưa bao giờ tâm sự với tôi về chuyện đó, và tôi rất cẩn thận tránh gợi nhắc. Nhưng cái chết của Anna Miller để lại trong Sheila một vết sẹo. Nó tác động sâu sắc đến cô ấy, chắc chắn rồi. Sự thật nói lên điều đó: cô ấy đã định trở về nhà, nhưng thay vào đó cô ấy nán lại thêm vài tháng.”

“Tốt lắm, anh Ransome,” Hurst cắt lời, rõ ràng là muốn thay đổi chủ đề. “Giờ thì chuyện đó đã rõ ràng, chúng ta trở lại với những vấn đề bức thiết hơn, nhất là chứng cứ ngoại phạm của anh. Trước hết, anh vẫn khẳng định đó là sự thật chứ?”

“Ông thích tôi nói dối hơn chăng? Nếu vậy, hãy hướng dẫn tôi những gì cần nói. Tốt hơn cả là cho tôi biết phải bịa ra điều gì mới khiến ông hài lòng.”

Viên thanh tra tiếp tục với nụ cười của người hiểu rõ sự hài hước ở mọi hình thái của nó, “Anh Ransome, tôi sử dụng thuật ngữ ‘chứng cứ ngoại phạm’, nhưng anh phải thừa nhận nó chưa thỏa đáng. Anh không thể nhớ chính xác tên của người ái mộ mình, không thể cung cấp cho chúng tôi bản mô tả và không biết người đó từ đâu đến – nói cách khác, anh không biết gì về cô ta. Một phụ nữ vô danh gọi điện, anh đi gặp và quay trở lại. Một phụ nữ vô danh mà, tôi tin chắc, cả anh lẫn chúng tôi đều sẽ không tìm ra. Nói cho nhanh, đó là chứng cứ ngoại phạm của anh. Khó mà coi là đủ vững chắc cho một vụ án giết người, anh không định phủ nhận chứ? Mặc dù tôi không bị thuyết phục rằng việc đó chiếm toàn bộ hai mươi phút vắng mặt, nhưng tôi biết anh sẽ nói rằng cô ta quàng tay quanh cổ anh và phải mất ngần ấy thời gian anh mới gỡ được cô ta ra khỏi người mình, vân vân và vân vân. Cho nên để tôi hỏi anh thêm một lần nữa: anh chắc chắn với lời khai của mình chứ?”

Không biết là lập luận, lời lẽ hay tính cách của viên thanh tra khiến Ransome thấy thú vị? Cho dù là gì thì nụ cười nhún nhường và thích thú của nam tài tử cũng đã xuất hiện trở lại.

“Ông thanh tra,” Ransome trả lời, “tôi có thể thấy ông vẫn bám chằng lấy ý nghĩ về cuộc tranh chấp tay đôi. Tuy nhiên nếu đúng như vậy thì kẻ ông cần nghi ngờ không phải là tôi, mà là ông bạn Gordon của tôi. Theo quy tắc trò chơi, anh ấy chính là người đã giăng bẫy giết hại Kosmỉnskỉ và đổ hết cho tôi. Cho nên ông cần tra hỏi Gordon và tìm cách phá bỏ chứng cứ ngoại phạm của anh ấy trong vụ Kosminskỉ, đồng thời cần chứng minh được rằng không phải Gordon đã bắn anh chàng thư ký, mà là một đồng phạm chẳng hạn. Thật ra ông có kế hoạch gặp anh ấy tối nay thì phải?”

Viên thanh tra liếc nhìn chiếc đồng hồ đã chỉ 9 giờ rưỡi.

“Ngày mai chúng tôi gặp ông ấy cũng được,” ông lưỡng lự nói.

“Ngày mai!” Ransome bật kêu với vẻ ngạc nhiên châm biếm. “Nhưng tôi cảm thấy anh ấy đang chờ đợi ông ghé thăm, xét theo tất cả những gì đã xảy ra. Phải, anh ấy biết rõ âm mưu giết người, tôi bảo đảm điều đó. Sự im lặng của ông có thể khiến anh ấy sốt ruột và thêm một đêm bất ổn nữa. Đợi nhé, tôi sẽ gọi cho anh Gordon.”

Ransome đi qua phòng tới chỗ điện thoại, trao đối vài lời với người bạn của mình và gác máy.

“Anh thật là chu đáo vì đã quan tâm tới tiến trình cuộc điều tra,” Hurst nói, rõ ràng đang cố kiểm soát giọng điệu của mình. “Nhưng tôi muốn nhắc anh chúng ta không ở trong rạp hát… anh hiểu ý tôi chứ! Phải. Chúng tôi xin chúc anh ngủ ngon… Mà nhân tiện, tôi đã nói chúng tôi tìm thấy gần hai trăm bảng trong phòng Kosminski chưa nhỉ. Khá nhiều tiền với anh ta, phải vậy không? Thật khó tin anh ta lại tiết kiệm được khoản tiền như thế. Chúng tôi đã gặp anh trai nạn nhân và anh ta cũng cảm thấy như vậy.” Hurst đi lại chỗ giá treo áo choàng, cầm lấy mũ của mình, và xoay người nhìn nam tài tử. “Chậc, đó là phản ứng đầu tiên của anh ta, nhưng một lúc sau, anh ta đưa ra một giả thuyết hấp dẫn, mà tôi rất muốn nghe ý kiến của anh. Anh ấy nghĩ em trai mình đã tống tiền ai đó đế tiêu xài.”

Viên thanh tra có vẻ định đội mũ lên, nhưng lại đổi ý và tiếp tục, “Nào, trong truờng hợp đó, thì ai là nạn nhân? Ai? Anh có ý kiến gì không, anh Ransome?”

Nam tài tử ngồi im. Nét mặt chìm sau làn khói tỏa lên từ điếu thuốc của anh ta.

Viên thanh tra cau mày, như thể một ý nghĩ đột ngột vụt đến trong tâm trí. Rồi một nụ cười tươi nở trên khuôn mặt, ông quay lại phía Donald Ransome lần nữa.

“Nhắc mới nhớ, tôi thậm chí còn chưa hề hỏi liệu anh có biết Stanley Kosminski không!”

Những viên bi nhỏ lanh canh di chuyển qua các ngón tay Gordon Miller, càng lúc càng nhanh. Cuối cùng ông gom chúng lại và trả lời câu hỏi mà viên thanh tra vừa đặt ra.

“Vâng, Stanley Kosminski là một người quen. Dĩ nhiên, tôi không thường lui tới với những người thuộc tầng lớp đó, nhung cậu ta, Kosminskỉ ấy, là một tay rất thú vị. Ở đẳng cấp thượng thừa trong lĩnh vực cậu ta lựa chọn. Thực tế, đó chính là lý do vì sao chúng tôi gặp nhau một hai lần gì đó. Còn về chuyện cung cấp cho ông các chi tiết về cuộc sống riêng cùa cậu ta, thì thật sự tôi không thể giúp được rồi. Những cuộc trò chuyện của chúng tôi chi xoay quanh ảo thuật và nghệ thuật trình diễn. Đó là tất cả những gì tôi có thể nói, ngoại trừ việc tôi đã không gặp cậu ta suốt vài tuần nay.”

Hurst dùng dầu bút chì gõ gõ lên cuốn sổ tay của mình.

“Thật lạ, ông Gordon, nhưng bạn của ông cũng nói đúng từng từ như vậy. Gần như lÀ… nhưng mà thôi. Chúng tôi vừa giải thích tình huống xảy ra cái chết. Ông suy nghĩ thế nào về vấn đề này?”

“Thật đáng tiếc, rất đáng tiếc…”

Gương mặt nhăn nhúm vì mệt mỏi và mái tóc thì rối bù, nhà viết kịch có vẻ bối rối hơn so với đêm trước. Ông phải rất cố gắng tỏ ra bình tĩnh, nhưng vẫn lộ rõ vẻ bồn chồn.

“Vậy ư?” Hurst hỏi.

“Ông muốn tôi nói gì đây?” ông trả lời vẻ khó chịu. “Rằng Donald và tôi âm mưu giết người chăng?”

“Vừa rồi chúng tôi cũng có lời bình phẩm tương tự với người bạn của ông: thư ký Peter Moore đến chỗ chúng tôi, báo tin rằng một trong hai ông định thực hiện một vụ giết người và giờ chúng tôi có đến hai vụ phải giải quyết.”

“Chính xác!” ông Gordon kêu lên, nhấn mạnh lời lẽ của mình bằng ngón trỏ bật lên trong không khí. “Nhiều hơn một vụ còn gì! Đó là bằng chứng tuyệt vời nhất cho thấy câu chuyện ngu ngốc về vụ thách thức là dối trá. Dối trá.”

“Về câu chuyện trứ danh ấy,” Twist xen vào, “ông có thể nói điều gì để làm rõ các vấn đề không?”

“Không. Thật sự là vậy.”

Câu nói không thực sự thuyết phục. Nhà viết kịch cụp mắt nhìn xuống.

Twist nghĩ một lúc rồi tiếp tục, “Cho phép tôi được nghi ngờ ông, ông Gordon. Tôi chỉ gặp Peter Moore một lần, nhưng tôi tin như vậy là đủ để định hình một ấn tượng. Tôi đã gặp đủ loại tội phạm để biết chúng có thể ẩn náu sau bất kỳ gương mặt nào. Tôi thừa nhận anh ta không trung thực, anh ta là một tên trộm hoặc thậm chí tệ hại hơn nữa. Nhưng tôi không tin anh ta biên soạn ra được một câu chuyện đáng ngạc nhiên và phức tạp như câu chuyện anh ta kể. Thật sự thì, rất hiếm người tôi gặp có khả năng tạo ra một kịch bản như vậy. Đúng hơn, tôi mới chỉ biết hai người: Donald Ransome, và ông.”

“Ông có thể nghĩ gì tùy ý, tiến sĩ Tvvist,” nhà viết kịch lầm bầm, cố tránh ánh mắt của nhà tội phạm học.

“Câu chuyện gợi ra trong đầu tôi vụ tai nạn chết đuối của vợ ông. Chúng tôi vừa có những thông tin mới về chuyện này, và…”

“Ông sắp ngụ ý rằng tôi giết cô ấy đây mà.”

“Không, yên trí thư giãn đi. Ngược lại, có nhiều lý do để tin rằng đó là một vụ tự tử.”

Ông Gordon đứng lên, đi tới giữa phòng, và làm động tác khoát tay bao quát toàn bộ bộ sưu tập vũ khí và mặt nạ trên các bức tường.

“Và, giống như ‘ông Jack’ người chăn cừu, ông sẽ nói rằng chính căn nhà và môi trường này, đấy là chưa nói đến bản thân tôi, đã khiến cô ấy rơi vào trạng thái khốn khổ đến mức cô ấy kết liễu cuộc đời mình.”

“Tôi chưa hề nói gì như vậy,” Tvvist đáp. “Tôi chỉ hỏi ông, liệu cách hành xử của vợ ông ở thời điểm đó có khẳng định giả thuyết ấy không mà thôi.”

Ông Gordon quay lại và ngồi phịch xuống ghế. “Chà, đúng là thể trạng cùa Anna không phải là tốt nhất ở thời điểm đó,” ông ta thú nhận. “Cô ấy mỏi mệt và bơ phờ, nhưng chỉ vậy thôi. Một trạng thái xảy ra với tất cả mọi người, lúc này hoặc lúc khác.”

“Có lý do nào cho trạng thái ấy không?”

Phản ứng đáp lại như một lằn roi. “Không hề có.”

Rồi im lặng, nhưng không kéo dài lâu, vì nó bị phá vỡ bởi tiếng những viên bi lăn tới lăn lui trong bàn tay ông Gordon. Một cảnh tượng kỳ lạ mà nhà tội phạm học xuất chúng thưởng thức một cách say mê.

Tiếng động ngừng lại.

“Thật sự, tiến sĩ Tvvist, tôi không hiểu nguyên nhân cho sự công kích trong câu hài của ông. Ông có một âm mưu giết người trong tay, và…”

“Tốt lắm,” nhà tội phạm học ngắt lời với thái độ cộc lốc mà hiếm khi ông thể hiện. “Hay ông gợi ý một động cơ cho vụ tấn công đi. Đây không phải là vấn đề với một người giàu trí tưởng tượng như ông mà.”

Câu nói dường như khiến nhà viết kịch ngạc nhiên, ông nhìn hai thám tử một lúc lâu rồi mới trả lời.

“Tôi không biết. Trả thù. Một vụ thanh toán thù hận. Phụ nữ. Trộm cắp…”

“Trộm cáp u? Có lý do gì để gợi ý như thế không?”

“Không, tự nhiên tôi nói thế thôi.”

“Thật lạ, bởi vì chúng tôi đã tìm thấy rất nhiều tiền tại hiện trường vụ án, được Kosmỉnski giấu trên nóc tủ quần áo. Gần hai trăm bảng. Như ông có thể nhận ra, đó là một số tiền lớn đối với anh ta.”

Ông Gordon cau mày.

“Vâng, rất lạ. Một số tiền như thế mà cậu ta lại không đưa vào ngân hàng. Thực tế là rất lạ.”

Hurst hòa nhã xen vào, “Chúng tối thấy là Kosminski có thể đang tống tiền ai đó. Ông nhận xét thế nào về khả năng này?”

“Tống tiền ai đó ư?” nhà viết kịch lặp lại với vẻ ngạc nhiên, đặt mấy viên bi lên bàn. “Nhưng ai mới được chứ?”

Hurst lơ đễnh kiểm tra móng tay mình.

“Có một tay Kosminski chắc chắn can dự vào vụ sát hại người yêu cũ của con gái ông, chúng tôi đã kể từ trước rồi. Giả sử đó là anh chàng của chúng ta, chính là gã Kosminski này, và giả sử những đồng phạm cùa gã không túng thiếu như gã. Thêm nữa, giả sử gã cảm thấy sự im lặng của mình xứng đáng với một khoản đền bù khiêm tốn… Ông hiểu điều tôi đang hướng đến chứ?”

Gương mặt ông Gorđon nhăn nhó.

“Không, tôi chẳng hiểu gì cả. Không, không hề.”