Chương 19: Anh trai của Kosminski

Giả Thuyết Thứ 7

Đăng vào: 11 tháng trước

.

Tin tức về cái chết của Kosminski, nhìn chung, không gây nhiều đau xót và thương tiếc cho lắm. Nhưng riêng với một người thì nó lại gây ra ảnh hưởng rất gớm ghê. Đó là Philip Lester, chủ rạp hát Whitechapel, vốn chỉ là một tiệm tạp kỹ ăn uống với sân khấu biểu diễn bên trong.

Ngoài số tiền lớn đựng ở hộp giày, và mặc dù đã kiểm tra kỹ càng khu nhà, các thám tử vẫn rời căn hộ của Kosminski với hai bàn tay trắng, không có lấy một manh mối khả dĩ nào chỉ dẫn cho họ.

Hurst đã thẩm vấn Henry và không thành công. Phần mô tả của ông ta về cái kẻ đã va vào mình chẳng có gì đáng tham khảo hơn so với lời thuật lại của Johnson.

“Quả là tin buồn,” Philip Lester, một người nhỏ thó mập mạp với khuôn mặt dường như luôn nhớp nháp mồ hôi, than vãn. “Người ta nói chẳng có ai là không thể thay thế, nhưng tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu bất kỳ lúc nào trong tương lai mà tìm được một người có phẩm chất như cậu ấy, tất nhiên là về mặt chuyên môn, và có nhu cầu tài chính khiêm nhường đến vậy. Các ông hiểu cho, với các vị khách quen ở khu này của thành phố, tôi rất khó cạnh tranh được với khu West End chẳng hạn. Trời ơi! Trời ơi! Cậu ấy khiến tôi rắc rối to rồi. Thật sự cậu ấy chọn thời điểm có lẽ là tồi tệ nhất. Như các ông thấy đấy, tôi đang tiến hành một số cải tạo. Nhưng bây giờ, tôi băn khoăn liệu việc đó còn đáng không.”

Nhìn quanh, Hurst và Twist có thể thấy, đằng sau những chỗ cải tạo, căn phòng trong tình trạng xuống cấp thấy rõ.

“Ông nói rằng anh Kosminski là một ảo thuật gia xuất sắc,” Twist nhận xét, mắt nhìn những dụng cụ khác nhau nằm rải rác dưới sàn.

“Rất cừ, đúng vậy. Không còn nhiều người như thế đâu,” Philip Lester hãnh diện đáp. “Tiết mục tủ của cậu ấy là những màn diễn biến mất.”

Một ánh nhìn đầy quan tâm hiện lên trong mắt viên thanh tra. Twist nói tiếp, “Ông Lester, không có ý xúc phạm đâu nhưng tôi thấy rất lạ là một ai đó có tài năng như anh Kosminski lại không tìm cách thử làm việc ở đâu đó… chẳng hạn trong các nhà hát nơi anh ta có thể kỳ vọng một khoản thù lao hậu hĩnh hơn.”

“Tôi hiểu rất rõ. Nhưng, ông thấy đấy, bốn hay năm năm trước, Kosminski gặp chuyện không may. Cậu ấy đang trình diễn màn phi dao của mình, không hề dùng mưu mẹo, ngược hẳn với trò diễn của hầu hết các đồng nghiệp. Một lưỡi dao đã cắm vào vai bạn diễn đông thời cũng chấm đứt tương lai sự nghiệp của cậu.” Im lặng. “Nhưng ở đây, các ông thấy đấy, chúng tôi sẵn sàng bỏ qua những chi tiết như thế.”

“Ông có biết liệu anh ta có kẻ thù nào không?”

Philip Lester ngẫm nghĩ một lúc.

“Tôi không nhận thấy ai cả. Nhưng tôi nghĩ anh trai cậu ấy có thể trả lời rõ hơn tôi.”

Twist nói, “Theo lời bà chủ nhà trọ của anh ấy, Kosminski cất giữ các thiết bị ảo thuật ở đây. Chúng tôi ngó qua được không?”

Philip Lester gật đầu và mời họ theo ông. Vài phút sau họ đã ở trong một gian phòng khá ẩm thấp chất đầy vaili đủ mọi kích cỡ.

“Tôi sẽ để các ông xử lý thứ đó,” ông chủ tiệm tạp kỹ nói. “Nếu các ông cần tôi vì bất kỳ điều gì, thì tôi ở trong văn phòng mình.”

Ông ta vừa đi khỏi, Hurst bật ra tiếng cười khùng khục. “Chuyên về các trò biến mất. Điều gì đó mách bảo tôi rằng nó không thể không có liên hệ tới một vụ án mạng nào đó.”

Twist dường như không lắng nghe, ông đang lục lọi các thiết bị của anh chàng ảo thuật gia quá cố, như một con chó săn đang lần tìm dấu mùi. Trước con mắt ôn hòa của viên thanh tra, ông lần lượt mở các va-li, để lộ ra những thứ rất đỗi quen thuộc với ông: gương, dây thừng, kiếm, thanh kim loại, khăn, mũ chóp cao và nhiều thứ khác.

Sau mười lăm phút, nhà tội phạm học đứng lên và đập đập hai tay cho bớt bụi.

“Anh định tìm cái gì vậy, anh bạn?” viên thanh tra vui vẻ hỏi. “Trang phục bác sĩ dịch hạch ư? Bọn họ sẽ cởi bỏ ngay, anh có thể đoan chắc như vậy.”

Tiến sĩ Twist ngẫm nghĩ một lát, rồi chỉ một chiếc rương cỡ bằng cỗ quan tài. “Anh có biết thứ đó làm gì không?”

“Để tôi xem? Có các rãnh ở phần sườn hẹp… một loại dụng cụ liên quan đến việc cưa một phụ nữ làm đôi chăng?”

“Chính nó. Đúng như chúng ta thấy trên bức ảnh. Nhưng, Archibald, anh có biết màn biểu diễn được thực hiện như thế nào không?”

“Không, trời ơi, tôi không biết. Tôi xem màn đó trên sân khấu cũng nhiều và lần nào tôi cũng căng óc tìm lời giải thích.”

“Hay lắm,” nhà tội phạm học trả lời, nhặt một cái cưa lên. “Tôi đề nghị một thử nghiệm nhanh. Lại đây nào.”

“Sao cơ?” Viên thanh tra kêu lớn, làm rơi cả điếu xì gà. “Nếu anh nghĩ tôi sẽ chui vào trong thứ đó thì anh nhầm đấy.”

“Được rồi,” Twist đáp, rõ ràng hết sức nghiêm túc. “Thế thì anh sẽ không biết được đáp án đâu.”

Hurst lầm bầm rồi mạnh tay giật mở một cánh tủ quần áo, như để trút bỏ tâm trạng thất vọng của mình.

“Ối chà, chúng ta có gì thế này? Quần áo của cái gã trong cỗ máy Maelzel. Anh nhớ không, cái tay chơi cờ ấy.” Twist bước lại. Hai bộ dồ Ấn Độ treo trong cái tủ quần áo nhỏ.

“Và, theo lời ông Gordon, anh chỉ phải chui vào mấy bộ đồ này là trở thành một cao thủ cờ. Ha ha!”

Vẻ cao hứng của viên thanh tra không được hưởng ứng. Twist thậm chí còn tỏ ra nghiêm nghị hơn. Trầm ngâm một lúc, ông kiểm tra tủ quần áo, trên giá treo rất nhiều loại quần áo khác nhau. Sau đó, ông cúi xuống, mở một chiếc va-li lớn ra và sững người, nhìn chằm chằm những thứ bên trong: một cái áo chẽn dệt từ những sợi kim loại dày gắn vài thanh kim loại, các thanh này dài, ngắn khác nhau, một số còn có ốc vít và đai ốc đằng mút cuối.

“Nếu chúng ta giải quyết được vụ này, Archibald, công lao sẽ lại thuộc về anh đấy.”

Khi đồng hồ điểm năm tiếng, không khí im phăng phắc. Nguồn sáng duy nhất phát ra từ ngọn đèn trên bàn ông Gordon. Thứ ánh sáng dìu dịu của nó soi tỏ gương mặt tay diễn viên và nhà viết kịch ngồi đối diện, những đường nét cứng đờ cùa họ thậm chí còn gây khó chịu hơn cả những chiếc mặt nạ xung quanh. Donald Ransome vừa báo tin về cái chết của Kosminski cho bạn mình. Đáp lại, Gordon Miller nhặt bốn viên bi từ ngăn kéo và bắt đầu mân mê trên tay. Ngoài cử chỉ đó, ông ta vẫn im lặng, nét mặt vừa giận dữ, vừa bấn loạn.

“Cũng cần phải nhưvậy,” cuối cùng ông ta nói. “Mà ai cung cấp tin cho cậu vậy?”

“Guy Williams. Ông ấy gọi điện cho tôi đâu giờ chiều nay. Ông ấy sống gần Stanley, anh biết mà.”

“Cũng cần phải như vậy,” ông Gordon lặp lại, giọng điệu đầy sát khí.

“Ở một số khía cạnh, tôi không thể không thắc mắc liệu vụ tai nạn xe cứu thương có phải là may mắn không,” Ransome thở dài. “Giờ thì anh ta chẳng nói gì được nữa rồi.”

“May mắn! Cậu tưởng đám cảnh sát là lũ đần sao? Trước đó, bọn họ không biết Kosminski là ai, nhưng giờ… Chắc chắn cậu không nghĩ bọn họ sẽ không lần ra mối liên hệ đấy chứ. Cứ đặt mình vào địa vị họ xem. Chúng ta sẽ nói gì với họ đây? Rằng chúng ta không biết hắn à? Họ sẽ nhanh chóng bác bỏ điều đó. Và khi đối chiếu với câu chuyện cậu kể về cú điện thoại từ một người hâm mộ tối qua… Tốt hơn cả là cậu nên ngậm miệng lại.”

“Vậy theo anh tôi có nên nói cho họ biết tên của người gọi không?”

“Không, dĩ nhiên là không. Như thế sẽ càng tệ hại hơn.”

“Chỉ muốn nhắc anh, bấy giờ tôi không thể biết rằng có ai đó đang tìm cách giết Stanley.”

“Đúng, rõ ràng là vậy,” nhà viết kịch nhẹ nhàng tán thành. “Nhưng mục đích của cuộc gọi đó là cái quỷ gì? Và kẻ tấn công là ai?”

Ransome châm một điếu thuốc và lắc đầu.

“Thật sự, tôi không thấy có manh mốì gì để đoán ra được.”

Ông Gordon đứng dậy để lấy một chai whisky và hai cái ly rồi lặng lẽ rót đầy, “Tôi băn khoăn liệu nói cho họ sự thật về Peter có tốt hơn không.”

Ransome ngước lên, môi thoáng nụ cuời. “Gã đã nhận cái giá xứng đáng với gã. Những gì gã thêm vào câu chuyện của mình rõ ràng đà chứng minh thái độ giả dối. Ít nhất chúng ta có thể nói vụ trộm đó chẳng giúp ích được gì cả. Tôi hy vọng anh nhận ra: nếu chúng ta tiết lộ cái bẫy của mình, hành động của anh sẽ rất đáng ngờ, nếu không bị coi là có dự mưu.”

“Tôi hiểu mà. Tôi đâu có ngốc,” ông Gordon vặc lại. “Nhưng giờ, ngọn triều đang chống lại chúng ta đấy. Chúng ta đang mắc kẹt trong những lời dối trá. Nếu chỉ có hai chúng ta thì không đến nỗi tệ. Nhưng còn Shoila. Chỉ cần cảnh sát hỏi con bé những câu đúng trọng điểm là chúng ta rất dễ gặp phiền phức đấy.”

Ransome uống cạn ly của mình. “Tôi sẽ nói chuyện với cô ấy.”

“Tôi đã hướng dẫn con bé rồi.”

Nam diễn viên chậm rãi lùa tay qua mái tóc vàng của mình, nhặt một viên bi của Gordon lên, ngắm nghía nó một lúc rồi nói.

“Tôi tự hỏi tiến sĩ Twist và cái lão thanh tra đần độn nọ nghi gì về chúng ta. Chắc họ tin chúng ta đang trong quá trinh tiêu diệt lẫn nhau theo lời thách thức trứ danh kia.”

Quãng 8 giờ tối, chiếc Talbot màu xanh dương của thanh tra Hurst từ từ chạy dọc phố Commercial. Đường sá vắng lặng, bảng lảng sương mù, phủ mở mấy ngọn đèn đường lác đác lẫn những cái bóng thưa thớt của khách bộ hành.

Viên thanh tra gò người xuống vỏ lăng, vừa nhìn đường vừa nói. Tôi không biết liệu anh có để ý không, Twist, nhưng trừ nhà của Miller và Ransome, mọi sự kiện đều diễn ra ở khu vực này của Luân Đôn. Nhà Guy Wíiliams ở ngay rìa phía Đông thành phố. Xa hơn một chút là phố Vine, cách phổ Goring nơi David Cohen chết độ năm phút đi bộ, và đi thêm một dặm nữa sẽ đến tiệm tạp kỹ của tay Lester đen đủi từng nói với chúng ta rằng có thể tìm được anh trai Kosminski mà gã này thì đang ở quán Ten Bells, không xa đây lắm.”

Twist, với vè cương quyết trên mặt, quan sát những ngôi nhà buồn thảm ở khu Whitechapel vùn vụt trôi qua.

“Chẳng rõ nơi này đã hồi phục sau sự kiện ghê gớm nửa thế kỷ trước chưa,” ông rầu rĩ đáp. “Nhìn mấy tòa nhà hung hiểm, tường vách, gạch ngói kia xem, dường như vẫn toát ra mùi máu tanh. Máu của những nạn nhân bất hạnh của con quái vật ấy.”

“Thật sự anh tin đây là lúc để nhớ lại vụ giết người hàng loạt ghê tởm đó à?” Hurst càu nhàu, cố kìm một cơn rùng mình.

“Từng viên đá dường như đều gợi nhớ mùa thu đẫm máu đó. Bóng dáng tên sát nhân vẫn còn lảng vảng trên đường phố, anh vẫn có thể cảm thấy mà.”

“Đủ rồi đấy! Chỉ nói thêm một lời về Jack Đồ tể là anh tự đi mà thẩm vấn Joseph Kosminski. Thề có Chúa, anh bị ám ảnh với gã này rồi! Nếu tôi không biết anh lâu như vậy thì tôi rất lo ngại về trạng thái mất cân bằng tâm lý của anh đấy. Người ta gần như có thể nghĩ là anh ngưỡng mộ hắn!”

“Theo tôi biết thì hắn là tên tội phạm duy nhất thuộc tầm cỡ hạ gục được Sở Cảnh sát Luân Đôn. Cho nên, chúng ta có thể coi hắn là một nghệ sĩ – hoặc, đúng hơn, một kẻ theo chủ nghĩa thuần túy. Hắn chỉ sử dụng gươm kiếm và luôn ‘làm việc’ ở cùng một khu vực: tại đây, nơi chúng ta đang có mặt. Hắn còn ghi điểm cộng bằng cách thông báo với cảnh sát trước mỗi vụ tấn công, như thể cho họ cơ hội để bắt hắn… Nhưng, tôi nghĩ chúng ta tới nơi rồi.”

Hurst đỗ xe gần nhà thờ Công giáo Spitalfields, với phần mặt tiền vươn cao vượt màn sương. Họ vừa mới ra khỏi xe thì chuông nhà thờ đỉểm 8 giờ. Chắc hẳn tiếng chuông cuối cùng đã đánh thức một chú chó gần đó nên nó bắt đầu cất tiếng sủa. Có thể thấy một khuôn cửa sổ lồi tỏa ánh sáng vàng vàng ở góc phố kế tiếp và cả tiếng cười chói tai nữa. Hurst đi về phía quán Ten Bells, nhưng Twist thì vẫn đứng yên, nhìn xoáy vào một lối đi tối tăm đối diện nhà thờ.

“Chính ở đây, trong cái ngõ này, hắn thực biện tội ác cuối cùng, vụ kinh khủng nhất. Một vụ tàn sát thực sự.”

Viên thanh tra, vừa dừng lại để đợi Twist, thất vọng quay gót bước đi.

Mùi bia và thuốc lá sực lên chào đón khi họ bước chân qua ngưỡng cửa quán rượu, nơi dân địa phương đang hào hứng thấy rõ. Họ không khó khăn gì nhận ra Joseph Kosminski trong đám đông. Mặc dù thấp hơn Stanley, nhung anh ta rất giống em trai với đôi vai chắc khỏe, mái tóc đen dày, khuôn mặt chữ điền và ánh nhìn dữ dội. Anh ta đang đứng bên quầy rượu cùng một người bạn. Hai chầu bia đủ để xua đi mọi ngờ vực và vài phút sau anh trai nạn nhân đã ngồi trong góc phòng với hai nhà thám từ.

Joseph Kosminski làm việc tại chợ Spitalfields và có quan hệ rất tốt với em trai mình, người thân duy nhất của anh ta ở đất nước này, gần như tuần nào họ cũng gặp nhau. Cái chết đột ngột của em trai khiến anh choáng váng và chảng mảy may hay biết ai đã gây ra vụ đó.

“Tin tôi di, nếu biết gì tôi sẽ là người đầu tiên giúp các ông. Nhưng, dù hết sức cố gắng, tôi cũng không thể nghĩ ra ai lại muốn làm hại nó.”

Hurst nói, nhìn thẳng vào mắt anh, “Anh có biết rằng em trai anh cất giữ một số tiền lớn trong nhà không?”

“Số tiền đó bị đánh cắp à?”

“Trả lời câu hỏi đi, anh Kosminski.”

“Ờ, loáng thoáng. Nó có nói qua.”

“Cách đây bao lâu?”

“Khoảng nửa tháng,” Joseph trả lời, giờ ró vẻ đề phòng. “Nhưng chắc các ông không nghĩ chính tôi…”

“Không, cứ yên tâm. Trộm cướp có vẻ không phải là động cơ của vụ án này, đặc biệt là tiền không hề bị lấy đi. Nhưng chính xác cậu ta đã nói gì với anh?”

Joseph nhíu mày như thể đang cố tập hợp lại các suy nghĩ.

“Nó đến tìm tôi vào một buổi tối và mời tôi tới một nhà hàng, bảo rằng để nó trả tiền. ‘Hôm nay, anh Jo, em trúng mánh! Thế thôi, và chẳng cần phải cố gắng nhiều.’ Tôi hỏi có phải nó có hợp đồng mới không và nó nói: ‘Chẳng có gì. Rất tiếc, em không thể kể với anh cụ thể hơn.’ Nó bắt đầu cười và nói, vẻ bí hiểm: ‘Hơi ám muội một chút. Anh biết càng ít thì càng tốt cho tất cả mọi người.’ Tôi không ép nó. Em trai tôi khá hài hước, tôi không xác định được nó đang trêu chọc tôi hay nó nghiêm túc nữa.”

“Tôi sẽ hỏi anh một câu hỏi tế nhị và khuyên anh nghĩ thật kỹ trước khi trả lời. Số tiền này, liệu có phải là kết quả của công việc gì đó bất lương, chẳng hạn như tống tiền không?”

Joseph Kosminski tìm cách né tránh câu hỏi, nhưng cuối cùng cũng phải thừa nhận ràng, nếu em trai mình sở hữu một số tiền lớn như vậy, và căn cứ vào việc anh ta im lặng về vấn đề này, thì không thể loại trừ khả năng đó, mặc dù không có gì để chứng minh cả.

Hurst gọi thêm một chầu, và tiếp tục. “Có phải ông Gordon Miller và Donald Ransome là bạn bè của em trai anh không?”

Joseph trả lời không chút do dự. “Vâng, nó có nhắc đến họ một lần.”

Mặc dù đã trông đợi một câu trả lời tích cực nhưng viên thanh tra vẫn há hốc miệng vì ngạc nhiên lần vui mừng.

“Anh Kosminski,” ông nhẹ nhàng nói, như thể đang nói với một sinh vật hoang dã mà ông sợ có thể chạy mất bất kỳ lúc nào, “anh có thể nói chính xác hơn về quan hệ của họ không?”

“Chà, cũng chưa lâu lắm đâu. Tôi nghĩ họ gặp nhau khá thường xuyên. Có lẽ để nói về các trò ảo thuật. Theo như tôi nhận định, họ là những người ưa bông đùa giống như nó. Các ông biết đấy, em trai tôi chẳng yêu thích gì ngoài các trò đùa bỡn. Đó gần như là một phản xạ với nó vậy. Cũng chẳng có gì là lạ, nhất là trong nghề của nó. Tôi chỉ có thể nói được đến thế thôi.”

“Khi anh nói ‘cũng chưa lâu lắm đâu’, liệu tôi có thể suy luận từ câu đó rằng họ đã không gặp nhau một thời gian không?”

“Giờ thì ông hỏi quá nhiều rồi. Tất cả những gì tôi biết là, nó không nói về họ đã vài tuần rồi.”

“Khoảng hai tháng, anh định nói vậy chăng?”

“Vâng, có lẽ.”

Hurst thở dài và ngẫm nghĩ một lát.

“Hai tháng trước, bấy giờ mới đầu tháng Chín. Hãy cố nhớ, anh Kosminski: khoảng thời gian đó em trai anh có nhắc nhỏm gì đến một trò bịp hay trò đùa nào có liên quan đến ông Gordon và anh chàng diễn viên không?”

Đến lúc đó, bia được mang ra và Joseph Kosminski uống cạn nửa ly của mình, dường như nó đã giúp ích cho trí nhớ của anh ta.

“Có,” anh ta trả lời với cái cau mày đầy tập trung.

“Tôi láng máng nhớ ra một chuyện. Nhưng không rõ liệu có liên quan gì đến ông Gordon bạn ông ta không. Chuyện khoảng một tháng trước. Tôi đến thăm Stan và nó mở một chai rượu gin mà… mà đến hết buổi tối thì gần như cạn sạch. Lúc đó chúng tôi không còn tỉnh táo nữa.

Nó ngồi trên giường và có vẻ đang nói với chính mình.

Tôi vẫn nhớ những lời độc thoại ấy bởi thái độ của Stan khiến tôi tò mò: ‘Không dấu vết.. không dấu không máu… đáng lẽ phải có chứ. Chuyện quái gì đây nhỉ?’ Tôi hỏi chuyện gì khiến nó phiền muộn, dường như câu hỏi khiến Stan bừng tỉnh khỏi trạng thái lơ mơ. Nó tỏ vẻ khó chịu và trà lời: ‘Không có gì, Jo, không có gì. Chỉ là một trò bịp bị thất bại thôi.’