Chương 18: Án mạng tại phố Vine

Giả Thuyết Thứ 7

Đăng vào: 12 tháng trước

.

Khoảng 2 giờ chiều, hai nhà thám tử tới phố Vine. Hurst lái xe, trừng trừng nhìn về phía trước và chửi rủa mọi chiếc xe tình cờ chắn ngang lối của mình. Hai bàn tay nắm chặt vô lăng như dây leo, ông bấm còi inh ỏi với bất kỳ ai nhấc chân rời khỏi vỉa hè. Gương mặt ông phản ánh toàn bộ tâm trạng thích gây gổ, rất buồn cười là lại thể hiện qua mớ tóc cứ liên tục xòa xuống đôi lông mày cau lại.

“Có vẻ chuyện này chẳng hề làm anh bớt ngon miệng, Twist,” ông càu nhàu. “Bận rộn bù đầu nhưng thế nào mà anh vẫn có thời gian gọi đến món khai vị thứ hai, và cả tráng miệng nữa.”

“Theo định nghĩa, bất kỳ loại công việc nào cũng cần tiêu hao năng lượng. Mà năng lượng chỉ có thể được bổ sung nhờ hấp thụ thức ăn.”

“Tôi hiểu,” Hurst châm chọc. “Anh đang nói về công việc trí não của anh. Mà như thế, tôi sẽ không lo cho những tế bào chất xám của anh; chắc chắn chúng không chết đói rồi. Nhưng nói tôi nghe xem, anh nhồi nhét như vậy mà chúng không buồn ngủ à?”

“Chắc chắn là không.”

“Bất luận thế nào, nếu anh không bận tâm, thì gần thấy chúng không được năng suất cho lắm. Dường như anh không phải là anh mọi khi.”

“Chúng ta phải thừa nhận vụ này khác hẳn bình thường.”

Hurst bấm còi, hai khách bộ hành khinh suất chạy vụt qua phố Oxford như những chú thỏ bị giật mình. Hurst nói, “Thực là một cơn ác mộng. Anh thấy không, chẳng có một mẩu dũ kiện nào đế chúng ta tin tưởng vào. Mỏi lần tưởng rằng đã nắm thóp được gì đó, thì hóa ra lại chẳng là gì cả và trở lại vạch xuất phát. Tôi có cảm giác chúng ta còn tệ hơn khi bắt đầu.

“Peter Moore kể một câu chuyện bịa đặt, anh ta chết và chúng ta buộc phải chạy theo. Các thỏa thuận trong vụ thách thức dường như cho thấy Ransome là thủ phạm. Anh ta có chứng cứ ngoại phạm vững chắc, chúng ta đã lần theo một đầu mối sai lệch, và anh chàng thư ký có vẻ là kẻ dối trá. Thật tình cờ, một vụ án nữa lại xảy ra đúng vào thời điếm Peter Moore bị ông Gordon giết. Nạn nhân là người chúng ta đang vô vọng tìm kiếm suốt hai tháng qua: kẻ tòng phạm bi ẩn trong vụ giết hại David Cohen, một vụ án mạng thực hiện trong tình thế gần như trò ảo thuật, kẻ rất có thể là một ảo thuật gia. Khi chúng ta vừa bắt đầu nghi vấn về sự tham gia của ông Gordon và tay bạn diễn viên của ông ta, thì lại xảy ra vụ giết hại Kosminski khiến mọi quân bài xáo trộn.

“Thêm một sự trùng hợp kỳ lạ nữa, vụ tấn công này xảy ra gần một bữa tiệc mà Ransome tham dự, anh ta đã lẻn ra ngoài khoảng hai mươi phút đúng thời điểm vụ tấn công. Mọi dấu hiệu tập trung về khả năng anh ta là thủ phạm. Nhưng đến thời điểm này, rõ ràng chúng ta không thể không nghĩ về trận so tài nổi tiếng kia. Nếu vậy, ông Gordon đã giết Kosminski và đổ trách nhiệm cho bạn mình. Nhưng ông Gordon lại có chứng cứ ngoại phạm vững vàng, cũng như Ransome có chứng cứ ngoại phạm vững vàng với cái chết của Peter Moore.

“Đủ để khiến người ta phát điên. Chúng ta biết rằng một vụ án đang được lên kế hoạch từ một lời thách thức đấu tay đôi và, khi anh còn chưa kịp biết nó là gì, thì đã có hai vụ, thực hiện gần như cùng thời điểm, một vụ ám chỉ đến âm mưu của ông Gordon, vụ kia lại là âm mưu của Donald Ransome. Mỗi người đều có chứng cứ ngoại phạm vững chắc cho cái bẫy của họ. Tóm lại, vụ việc kép này chính thức chứng minh cho giả thuyết về vụ thách thức, đồng thời cũng lại phủ nhận nó.

“Thỏa thuận trong lời thách thức chỉ rõ rằng bất kỳ ai mà số phận chỉ định sẽ thực hiện một tội ác theo cách quy tội cho người kia và người thứ hai có thể dùng bất kỳ hình thức tự vệ nào nhưng không được nhắc gì đến cuộc đấu. Bất kỳ hình thức tự vệ nào,” Twist trầm ngâm nhắc lại. “Sẽ thế nào nếu một người được cho là chủ thể của vụ án đầu tiên lại chọn ‘tấn công’ làm phương pháp tự vệ, và giăng một cái bẫy tương tự cho đối thủ của mình?”

“Cực chắng đã, thì tôi có thể chấp nhận chuyện đó,” Hurst thở dài, “nếu cả hai vụ đều không được thực hiện chính xác cùng thời điểm. Hơn nữa, chứng cứ ngoại phạm của họ…”

“Mỗi người đều có thể có một đồng phạm,” nhà tội phạm học nói không mấy thuyết phục. “Anh đúng đấy, Archibald, tôi khó lòng chấp nhận một sự trừng hợp quá rõ như thế. Tuy nhiên, có một lời giải khác: ông Gordon chỉ quan tâm đến việc giết anh chàng thư ký của mình còn Donald Ransome lo Kosminski. Không hề có chuyện thách đấu bí mật, chỉ là công việc. Động cơ cho các vụ giết người là gì? Kosminski rất có thể là một nhân chứng phiền phúc trong vụ Cohen. Gã là đồng phạm của bọn họ, chừng nào còn sống thì gã cũng là mối hiểm họa cho họ. Về Peter Moore, bọn họ loại anh ta sau khi phái anh ta đến đánh lừa chúng ta về chuyện ‘thách thức’ để che mắt chúng ta trước những điều hiển nhiên.” Ông lắc đâu, “Mà không, không thể như thế. Không có câu chuyện của Peter Moore, chúng ta sẽ chẳng bao giờ có mối liên hệ tới vụ giết hại Cohen, chẳng bao giờ tìm thấy gì đáng ngờ về vụ đột nhập bi thảm, và chẳng tao giờ điều tra ra Ransome có liên hệ với Kosminski.”

Hurst vào số rất mạnh. “Trời ơi, Twist, thôi nào. Tất cả những gì chúng ta làm trong hai ngày qua là hình thành hết giả thuyết quái dị này đến giả thuyết quái dị khác.”

“Nhưng nhất định phải có một giả thuyết đúng.”

“Tôi biết: cái thứ bảy. Giả thuyết thứ bảy nổi tiếng của anh. Với tốc độ chúng ta đang đi, chắc nó phải là cái thứ mười hoặc thậm chí mười hai ấy chứ.” Ông giận dữ ấn còi hai lần. “Mẹ kiếp! Hôm nay mọi người làm sao vậy? Họ cứ lao vào bánh xe của tôi.”

Tiến sĩ Twist rất muốn thuyết phục bạn mình bình tĩnh, nhưng ông biết, dù gợi ý thế nào thì cũng sẽ chỉ đem lại hiệu quả ngược lại.

Ông nói, “Nếu chúng ta đứng lùi ra xa và xem xét lại vấn đề, thì dường như vụ giết hại David Cohen là xuất phát điểm hợp lý. Có ba khả năng: Một, Ransome thực hiện vụ đó. Hai, Miller thực hiện. Ba: họ cùng làm. Từ các sự việc, khả năng thứ ba có vẻ chắc chắn nhất. Chúng ta cũng có động cơ cho từng trường hợp: Donald, vì yêu Sheila, muốn loại bỏ tình địch; ông Gordon, lo ngại cho tương lai con gái mình, muốn loại bỏ kẻ đào mỏ.”

“Trừ phi có liên quan đến ma túy, mà trong trường hợp đó thì Miỉler và Ransome đều có thể là kẻ phải chịu trách nhiệm.”

“Ông Gordon ư? Với con gái ông ta là khách hàng ư? Anh đùa chăng? Anh thật sự bị ám ảnh rồi. Nếu anh buộc phải đi theo luận điểm đó, thì hãy làm một chuyến đến câu lạc bộ nơi Cohen chơi nhạc. Anh sẽ thấy một gã bán ma túy tởm lợm và thế là kết thúc. Việc có thể làm là gán cho hai đối tượng tình nghi của chúng ta một động cơ nữa, nếu họ tin Cohen môi giới ma túy cho Sheila. Nhưng chẳng có gì chứng minh rằng mọi việc không đi theo hướng ngược lại.”

“Anh có cơ sở nào cho nhận xét cuối cùng không?”

“Có và không. Nhưng tôi không muốn làm rối suy nghĩ của anh thêm nữa chỉ vì chuyện gì đó mà tôi chưa có chút bằng chứng nào. Nhưng tôi sẽ nói thế này: Xem chừng cô Forrest đang chất chứa một nỗi buồn rất khác thường so với một cô gái ở tuổi như vậy. Có thể nói là gần như chẳng còn động lực gì để sống tiếp nữa. Đừng hiểu chuyện này phức tạp lên, nhưng tôi cho rằng cô ấy đã sử dụng ma túy trước khi gặp anh Cohen.”

“Thế đấy, anh lại chơi trò ảo thuật rồi,” viên thanh tra càu nhàu, răng nghiến chặt. “Xin anh nhớ cho, tôi thích như thế hơn là nghe anh đong đếm chuyện phải trái đúng sai của mọi tình tiết nhỏ nhặt trong vụ này.”

“Tôi xin nhắc anh rằng anh chưa hề biết ngại trong lĩnh vực đó.”

“Tôi biết, Twist, tôi biết. Đấy chính là vấn dề. Dù có quay ngược thời gian đến đâu thì tôi cũng không thể nhớ nổi một vụ án khiến chúng ta phải tranh luận nhiều đến vậy, dựng lên nhiều giả định đến vậy, kết hợp nhiều khả năng đến vậy, nêu ra nhiều giả thuyết đến vậy, rồi gạt bỏ, và lại và nghiền ngẫm chúng…”

Họ không nóỉ thêm lời nào cho tới khi đến phố Kenchurch, ở đây Hurst đi chậm lại. ông chỉ về mặt tiền trang nhã và ấn tượng của một tòa nhà bên trái, gần cuối phố.

“Guy Williams sống ở đó đấy,” ông nói.

Đi tiếp một trăm thước nữa, họ vào phố Aldgate. Họ rẽ phải, phóng vào phố Jewry rồi rẽ trái, sang phố George, cuối cùng mới vào phố Vine chật hẹp và tối tăm.

Bên phải là bức tường ngăn buồn tẻ và gớm guốc của một nhà kho. Đối diện bức tường là cụm nhà ba tầng tua tủa những cây cột đang phơi đầy quần áo của cư dân: đúng là màn trình diễn của những mảnh cờ trắng nổi bật trên nền tường gạch đen và bầu trời xám xịt.

Chiếc xe chạy lạo xạo trên lớp đá cuội gồ ghề được vài thước, rồi dừng lại trước nhà số 8, đỗ sau một chiếc xe cảnh sát.

“Johnson đã tới rồi,” viên thanh tra nói và tắt máy. “Anh nghĩ sao, Twist? Từ đây tới nhà Guy Williams, chưa đây nửa dặm phải không? Như vậy là đi bộ năm phút với tốc độ bình thường. Nếu rảo chân, chưa đây bảy phút vừa đi vừa về, như thế dư ra ít nhất mười phút để… Ta đi nào.” Sau hồi chuông dài, một người phụ nữ có bộ mặt cáu kỉnh ra mở cửa và nhìn họ đầy nghi ngại.

“Tầng ba, đầu tiên bên phải,” bà ta rít lên, trước khi họ kịp giới thiệu bản thân.

Hurst thở phì phò và hổn hển sau ba đợt cầu thang họ đến một hành lang tối tăm nồng nặc mùi mốc meo. ông đẩy một cánh cửa đã mở hé và, với những bước nặng trịch, tiến vào căn hộ của Stanley Kosminski. Hạ sĩ Johnson đang khom mình bên cái bàn dưới cửa sổ, đứng thẳng lên và chào họ.

Hurst tiến vào căn phòng bẩn thỉu. Hai chiếc tủ lắp gương kê đối diện nhau; một chiếc giường bừa bộn loang lổ những đốm thẫm màu; bên trái giường là một chiếc bàn; bên phải là một chiếc tủ ngăn kéo chất đống sách. Các bức tường phủ giấy dán đã bạc màu, có rất nhiều hình chụp các nghệ sĩ xiếc và nhà hát ca múa nhạc. Cánh cửa để ngỏ dẫn tới một phòng tắm nhỏ xíu.

Viên hạ sĩ hất cằm ra dấu có gì đó trên bàn. Hai nhà thám tử nhìn cái hộp giày mà lúc họ vào đến anh ta đang kiểm tra, rồi cùng bật kêu lên ngạc nhiên khi thấy thứ bên trong.

“Tôi tìm thấy lúc các anh vào,” Johnson nói. “Nó ở trên nóc tủ.” Anh thọc tay vào hộp và rút ra một nắm tiền, “Chắc đây là thu hoạch cả năm trời ở cái nhà hát tồi tàn nơi anh ta làm việc.”

Viên thanh tra nhặt một nắm tiền và ướm nặng nhẹ trên tay, như thể đó là tiền lời từ một khoản đầu tư khôn ngoan. Nở nụ cười bi hiểm, ông trả bằng chứng về chỗ cũ rồi ngồi xuống một chiếc ghế và nhấc mũ ra.

“Động cơ của vụ án đã rõ ràng,” viên hạ sĩ nói.

“Tôi sẽ rất ngạc nhiên đấy,” Hurst đáp lại.

“Nhưng…”

“Tiền vẫn ở đây, phải không? Và nhất là lại được cất giấu chẳng kĩ càng.”

“Anh biết mà, kẻ tấn công không có nhiều thời gian để sục sạo, bởi vì…”

“Tôi biết, Briggs nói với tôi rồi. Nhưng hãy cho tôi biết, Johnson, liệu vụ này dễ dàng đến vậy, thì tôi có ở đây không?”

“Ồ, tôi…” viên hạ sĩ trẻ lầm bầm, đầu gằm xuổng như một cậu học sinh bị bắt quả tang quay cóp.

“Được rồi. Kể cho chúng tôi mọi điêu cậu biết đi.”

Johnson bước lại cái tủ ngăn kéo và chỉ bức ảnh người đàn ông cao, vóc dáng vạm vỡ đang cúi xuống một cái rương cắt làm đôi, bên trong có một thiếu nữ với phần đầu lấp ló ở một bên và chân ở phía bên kia.

“Là anh ta đấy, Stanley Kosminski. Ảo thuật gia chuyên nghiệp. Cho tới tối qua, anh ta vẫn thường xuyên biểu diễn ở một nhà hát tồi tàn trong ngõ phía sau đường Commercial, không xa đây lắm.”

“Cảm ơn cậu. Tôi có biết khu đó.”

Johnson vờ như không nghe thấy và tiếp tục. “Sáng nay tôi có gặp ông chủ một lát. Nhà hát phái đóng cửa vài tuần để sửa chữa. Qua đó ta hiểu tại sao tối qua Kosminski lại ở nhà. Khoảng 11 giờ, mấy nguờì thuê phòng gần đây nghe thấy những tiếng huỳnh huỵch rất rõ, có tiếng kêu bị tắc lại. Tất cả chỉ diễn ra có vài giây, sau đó một cánh cửa sập mạnh và ai đó chạy hùng hục xuống cầu thang. Người ở phòng cuối là nhân viên bảo vệ ban đêm và chuẩn bị vào ca trực. Anh ta thoáng thấy một cái bóng ở buồng cầu thang. Rất tiếc là anh ta lại không tả được nhiều bởi vì nguồn ánh sáng trong hành lang chỉ tới từ các phòng. Điều duy nhất anh ta có thể chắc chắn, đó là một người tóc sáng màu mặc bộ đồ sẫm màu.”

“Tóc vàng à?” Hurst hỏi, ngồi thẳng dậy.

“Vâng.”

“To cao? Thấp bé? Béo? Hay gầy?”

“Tôi đã hỏi anh ta một lúc lâu, như ông có thể hình dung, nhưng anh ta không tài nào kể nổi thêm điều gì nữa. Điều kỳ cục là, kẻ bỏ trốn bị ông Henry chồng của bà chủ nhà, lúc ấy đang trở về nhà, nhìn thấy ở góc phố George, cách đây chưa đầy năm mươi thước.”

“Có gì kỳ lạ ở chi tiết đó chứ?”

“À. Henry va phải một người đang vội vã, nhưng lại không phải tóc vàng. Ông ta cũng không thể mô tả chi tiết, bởi vì sau khi va phải người đàn ông và gã chạy biến đi, ông ta chỉ kịp nhìn thấy phần lưng. Henry nói đó là một người tâm thước, mặc đồ đen và có mái tóc đen hoặc thẫm.”

Hurst lặng người nhìn Twist.

Johnson hắng giọng.

“Rất kỳ lạ, tôi biết vậy. Nhưng tôi nghĩ nhân chứng nhầm ở điểm cuối cùng, ông ta vừa rời quán rượu ở góc phố. Ông ta chưa say hẳn, nhưng hơi thở vẫn nồng mùi rượu. Với lại, ông ta quả quyết rằng cái kẻ va vào mình chính là kẻ tấn công, bởi vì khi về đến nhà thì được bà vợ kể cho nghe những gì vừa xảy ra.”

“Đám nhân chứng chết tiệt này lúc nào cũng như nhau,” Hurst hậm hực, nắm tay siết chặt. “Cứ như thể họ rất sung sướng khi đưa ra những lời khai mâu thuẫn. ‘Một người tầm thước’, như thế có nghĩa gỉ chứ? Đừng cố nói với tôi ông ta không thể mô tả chính xác hơn được nữa đấy.”

“Gã không to lớn cũng chẳng nhỏ con,” Johnson kiên nhẫn nhắc lại. “Ông ta khá chắc chắn về chi tiết đó, nhưng chỉ có vậy. Anh biết đấy, thưa thanh toa. Ban đêm ánh sáng ở khu vực này không được tốt, tôi nhận thấy điều đó từ hôm qua. Tôi thành thực nghĩ chứng ta vẫn còn may khi tìm được hai nhân chứng. Như thế là rất đáng chú ý ở dạng vụ việc này.

“Chúng tôi đến đây vào khoảng 11 giờ rưỡi. Kosminski nằm trên giường, vẫn còn hơi tỉnh. Bộ đồ ngủ đầy máu. Mũi bị gãy và người toàn vết dao đâm, hai nhát bên cánh tay trái và đến nửa tá vết ở thân trên, ngay gần tim. Không nhát nào chí mạng cả. Tiến trình của vụ án rất dễ dựng lại. Kosminski ở trên giường, đã mặc đồ ngủ. Có khách gõ của, anh ta đứng dậy, mở cửa, bị đánh vào mặt và ngã ngược trở lại giường. Kẻ tấn công nhảy chồm lên anh ta với ý đồ hạ sát. Tôi nghĩ chẳng có nhiều nghi vấn về ý đồ này, vì tất cả các cú đòn đều nhằm vào tim. Kosminski, nửa tỉnh nửa mơ, không kháng cự được mấy…”

“Tồi rất muốn biết,” Hurst ngắt lời, “làm sao cậu phán đoán được như vậy.”

Johnson ra hiệu về phía cánh cửa.

“Cái chốt cửa,” tiến sĩ Twist nhận xét. “Nó vẫn y nguvên, tức là kẻ đột nhập không phải phá cửa. Và với số tiền Kosminski đang giữ, rất khó hình dung anh ta đi ngủ mà không chốt cửa.”

“Đúng vậy. Và tôi không thể hình dung kẻ tấn công bám theo anh ta với một con dao, lại vứt nó xuống để đánh nạn nhân, rồi mới nhặt dao lên. Rõ ràng việc đâu tiên hắn làm là tìm cách hạ gục anh ta.”

Twist tiếp tục, “Nhưng Kosminski tiếp nhận cú đánh khá tốt, và đã kháng cự được một lúc.”

“Kẻ tấn công định kết liễu anh ta thật nhanh, vì nhận ra rằng tiếng động của vụ xô xát sẽ gây chú ý, và sự nôn nóng này của gã đã cứu mạng Kosminski,” Johnson thở dài kết luận.

“Như vậy đáng lẽ anh ta đã sống sót, nhưng cuối cùng lại chết vì vụ tai nạn trên đường xe đưa cấp cứu?”

“Nhân viên phục vụ nói thế. Anh ta mất rất nhiều máu, nhưng tính mạng không có vẻ nguy hiểm.”

“Cậu có tìm cách hỏi chuyện anh ta trước lúc xe cứu thương đến không?”

“Anh ta quá đau đớn. Chỉ một vài tiếng rên rỉ rất khẽ, có vậy thôi.”