Chương 14: Đúng hay sai

Giả Thuyết Thứ 7

Đăng vào: 11 tháng trước

.

Không ai nói gì một lúc lâu. Sau đó, nhà viết kịch phá vỡ sự im lặng với một nụ cười.

“Tôi bắt đầu hiểu ra. Theo ông, thưa ông thanh tra, tôi là nạn nhân của một âm mưu của Donald Ransome. Cậu ta chiến thắng trong trò chơi sấp ngửa quyết định ai sẽ là người gây tội ác, nên đã tiến hành thủ tiêu thư ký Moore theo cách thức đặc biệt để đổ tội cho tôi. Giả định là đúng như vậy, và rằng Donald với tôi thực sự ghét nhau như các ông nhận định – nói cách khác, coi như câu chuyện của các ông là đúng đi, mặc dù chứa đựng rất nhiều chỉ tiết hoang đường – thì các ông có nghĩ tôi lại đi dựng lên một lời khai như vậy để biện hộ cho mình không? Giả vờ là chính tôi đã bắn một tên trộm không?”

“Tôi không nghi ngờ lời khai của ông, ông Gordon. Ông đã kể lại đúng thực tế ông trải qua.”

“Vậy thì, đâu là vấn đề? Chắc ông không bảo rằng tôi mơ tưởng mọi chuyện chứ? Rằng tôi say thuốc hay gì đó chứ?”

“Tôi chưa có thời gian rà soát một lượt vụ việc trong đầu, nhưng tôi nhìn thấy một khả năng. Giả định rằng thư ký của ông đã chết từ trước lúc ông xuống nhà, bị bắn bằng khẩu Remington có lắp giảm thanh, xác anh ta được đặt tựa vào bộ giáp hoặc thậm chí đặt ngay dưới chân. Sau đỏ giả định rằng súng được thay một vỏ đạn rỗng – cùng loại vỏ đạn, cùng loại thuốc súng, nhưng không có đạn và đặt lại đúng chỗ. Ông vẫn không hiếu ư? Ông bảo tên trộm giơ tay lên, anh ta bèn ném đèn pin vào ông và trúng bộ giáp nên vỡ tan dưới sàn. Anh ta lao về phía ông và ông bắn – thực tế là một phản xạ tự động trong hoàn cảnh đó và dự đoán được, qua việc ông vớ lấy khẩu súng, mà tôi cho là thứ vũ khí nạp đạn duy nhất trong phòng – rồi kẻ tấn công gục xuống sàn. Ông lần ra chỗ công tắc, mất hai mươi giây trong bóng tối thì đèn bật sáng.”

“Tôi hiểu. Kẻ đột nhập, vốn chưa chết và không ai khác hơn là Donald Ransome, có đủ thời gian tẩu thoát qua ô cửa sổ đế ngỏ.”

Hurst hỏi kèm một nụ cười khích lệ, “Ông nghĩ sao, ông Gordon? Liệu có thể xảy ra như thế chăng?”

“Chắc chắn là có thể,” nhà viết kịch thừa nhận kèm một tiếng thở dài bực bội. “Mọi việc xảy ra quá nhanh và trong tình cảnh hiểm nghèo, tôi không thể nghĩ được chi tiết gì trái ngược với chuỗi sự kiện của ông. Nhân tiện, ông thanh tra, tôi phải nói rằng ông có bộ óc xem chừng còn ranh ma hơn cả tôi đấy, và tôi rất khích lệ ông viết những ý tưởng phi thường ấy ra giấy càng nhanh càng tốt.

“Nhưng quay lại chủ đề đang bàn, tôi phải chỉ ra một sai sót trong lập luận của ông. Cứ cho rằng Donald đã tạo ra tình huống để đổ tội cho tôi đi, tôi vẫn phải nói thật kế hoạch của cậu ta không hỉệu quả cho lắm. Suy cho cùng, vị thế của tôi ở thời điểm đó là gì chứ? Tôi giết một người, nhưng đây là tự vệ chính đáng. Chính ông cũng thừa nhận tôi khó lòng hành động khác trong hoàn cảnh ấy. Trong trường hợp tệ nhất, tôi phải đối mặt với vài tháng trong tù, nhưng thế cũng chẳng ảnh hưởng gì nhiều đến sự nghiệp viết trinh thám của tôi. Cho nên tôi phải kết luận rằng ý tưởng của ông về một kế hoạch thâm hiểm do Donald vạch ra nhằm đẩy tôi tới giá treo cổ là không vững vàng.”

Hurst nhìn Twist vẻ thất vọng, nhưng vị tiến sĩ, mắt nhắm, dường như chìm trong một giấc ngủ nhẹ nhàng, trái ngược với những làn khói vẫn đều đặn tỏa ra từ tẩu thuốc của ông.

“Như tôi đã nói với ông, ông Gordon, đó chỉ là những suy nghĩ ban đầu của tôi. Cũng có thể chuỗi các sự kiện của ông không thật sự chính xác, và ông thấy xác Peter Moore trong tình cảnh còn dễ bị đổ tội hơn so với mức ông đã khiến chúng tôi tin – dĩ nhiên đây là kết quả do Ransome dựng lên rồi. Cho nên ông bịa ra câu chuyện về việc giết tên trộm để tự vệ chính đáng bằng cách thay đổi một hai chi tiết nhỏ đâu đó, làm cho câu chuyện của mình có giá trị.”

Ông Gordon cười vẻ rầu rí.

“Cho tôi được nhắc ông, thưa ông thanh tra, rằng tôi gọi cho cảnh sát ngay khi sự việc xảy ra. Làm sao tôi có thể sắp đặt tất cả các điều kiện cho một câu chuyện như vậy chỉ trong vài giây? Tôi biết tôi được xem là một bậc thầy về ngụy tạo, nhưng cho dù như vậy…”

“Phải, tôi đồng ý là không thể làm được,” Tiến sĩ Twist ngát lời, mở bừng mắt. “Tôi muốn ông nói về Peter Moore, ông Gordon. Anh ta là ai? Anh ta hành xử như thế nào trong mấy ngày vừa qua, lý do anh ta nghỉ việc, và bất kỳ điều gì khác có thể liên hệ đến tình hình hiện nay?”

Gương mặt nhà viết kịch thoáng chút do dự, ông ta suy nghĩ rất lâu lồi mới trả lời.

“Giờ tôi nhận ra rằng tôi không biết nhiều về Peter Moore, mặc dù anh ta làm việc cho tôi đã hai năm. Tôi tìm được anh ta qua một quảng cáo trên báo. Những lời giới thiệu về anh ta đều rất ổn và anh ta gây được ấn tượng tốt. Tôi chưa bao giờ có lý do để hối tiếc về lựa chọn của mình. Thông minh, lịch thiệp và kín đáo, đôi tay rất khéo léo. Anh ta chưa bao giờ mở lời khi chẳng có gì để nói; thực tế, chúng tôi chỉ mới trao đổi về những vấn đề có liên quan trực tiếp đến công việc của anh ta. Peter sống ngay trong nhà và hiếm khi ra ngoài. Điều duy nhất tôi biết về cuộc sống riêng cùa anh ta là anh ta còn độc thân. Mỗi tháng một lần, anh ta về nghi cuối tuần với bố mẹ ở Leeds – ít nhất đó là những gì anh ta nói với tôi.

“Thứ Tư tuần trước anh ta bảo tôi bà mẹ bị ốm nặng và xin nghi một tuần. Tôi đồng ý và anh ta lên đường vào buổi sáng hôm nay, khoảng 10 giờ. Hừm, thật kỳ quặc, giờ tôi mới nghĩ đến; bình thường anh ta chỉ mang theo một chiếc túi du lịch nhỏ, nhưng lần này anh ta mang một cái va li to.”

“Về phía tôi,” Hurst đứng dậy nói, “đã đến lúc chúng ta xem xét phòng anh ta.”

Mười phút sau, hai nhà thám tử và ông Gordon quay trở lại ghế của họ, sau khi khám xét phòng Peter Moore. Một cuộc kiểm tra nhanh chóng nhưng lại tiết lộ nhiều điều: vài cuốn tiểu thuyết tinh báo trên chiếc bàn cạnh giường, mấy chiếc áo choàng màu lam, một bộ com-lê cũ cùng một đôi giày trong tủ quần áo.

“Chúng ta chấp nhận đi,” viên thanh tra lầm bầm, kèm theo động tác từ chối nhẹ nhàng khi vị chủ nhà mời một ly whisky đây, “tay thư ký hoàn hảo không hề có ý định ở lại với ông. Rất lạ lùng đấy, ông Gordon, tôi tin chắc ông cũng đồng ý về điểm này. Ông nói với chúng tôi anh ta biết ông chỉ giữ một ít tiền trong két. Tôi biết vài kẻ giết người chỉ vì số tiền ít hơn năm mươi bảng đấy, nhưng cho dù vậy…”

“Đúng vậy.” Ông Gordon lùa một bàn tay to khỏe qua mái tóc rối bời. “Thực tế, thỉnh thoảng tôi có để mấy món tiền lớn trong két. Tôi chỉ không tin được là Peter lại mạo hiểm chấp nhận bị nghi ngờ và đánh mất vị trí của mình vì một khoản tiền chẳng đáng là bao như vậy. Nó đâu có đáng gì. Nhưng giờ…”

“Giờ anh ta đã chết, và ông thay đổi suy nghi cùa mình,” viên thanh tra ngắt lời, có vẻ đang nhìn nhận mọi việc theo hướng khác.

“Vâng, đặc biệt từ khi… chà, sự thật vẫn là sự thật.”

Lại thêm một lúc im lặng nữa. Sau đó hạ sĩ Sewell xuất hiện.

“Có vài người nghe thấy tiếng nổ, thưa sếp, nhưng họ cứ đinh ninh đó là tiếng nổ của xe cộ. Bà cụ già ở số 12 chỉ nghe thấy một tiếng động xa xăm, nhưng cặp vợ chồng ở số 8, vì phải mất đến nửa tiếng tìm cách ru con ngủ, thì có để ý. Họ bảo đảm lúc đó khoảng 11 giờ, xê dịch một vài phút.”

Hurst cử một sĩ quan cấp dưới đến kiểm tra phòng Peter Moore thật kỹ càng, rồi quay sang nhà viết kịch và nói khẽ nhưng kiên quyết, “Ông Gordon, tôi có ấn tượng rất rõ rằng ông chưa nói với chúng tôi toàn bộ câu chuyện về tay thư ký.”

“Thật sao!”

Sắc thái ngạc nhiên bật ra rất thành thục, nhưng trước đó vẫn có một thoáng ngập ngừng, và không thể qua mắt hai nhà thám tử.

“Tôi nghĩ thế,” Hurst tiếp tục, “và tôi cũng tin ông sẽ không nói thêm gì vào lúc này. Tôi chỉ muốn nhắc rằng chúng tôi cũng có những bí mật nho nhỏ của mình đây,” ông nói thêm, ngoắc ngoắc ngón tay trỏ.

Twist ho khẽ, xen vào, “Chúng ta cùng thảo luận nhé. Tay thư ký của ông quyết định bỏ việc và kiếm một ít tiền của ông như lời tạm biệt. Không có lý do gì để quả quyết anh ta chỉ lấy đi có thế. Một số mẫu trong bộ sưu tập vũ khí của ông chắc chán rất đáng tiền.”

Ông Gordon gật đầu và Hurst cũng vậy, thầm tự trách mình vì đã không nghĩ đến điều này trước.

Nhà tội phạm học tiếp tục, “Vấn đề là tại sao anh ta lại tìm đến chúng tôi vào chiều thứ Sáu để kể câu chuyện kỳ lạ như vậy? Anh ta là một tên trộm và một kẻ dối trá, đồng ý, nhưng tôi không tin anh ta điên. Vậy thì tại sao? Tại sao, ông Gordon? Chắc hẳn ông có phán đoán gì đó chứ, dù chỉ mới lờ mờ.”

Nhà viết kịch mím môi và cau mày trầm tư trong lúc ngắm nghía chiếc nhẫn dấu khắc tên mình lấp loáng trên ngón tay, dường như bị giằng xé giữa nhiều cảm xúc. Ông ta chậm rãi trả lời, “Không, thật sự, tôi chẳng thể giúp các ông.”

Viên thanh tra vừa định lên tiếng thì Twist chặn lời ông bằng một cử chỉ kín đáo và nhắc lại câu hỏi, “Ông Gordon, ông có nói rằng tối nay Ransome đưa con gái ông đến dự một buổi khiêu vũ hóa trang. Có xa đây không nhỉ?”

Nhà viết kịch trả lời, môi thoáng nét cười. “Vậy là các ông vẫn đang nghĩ đến một âm mưu đen tối nào đó của bạn tôi?”

“Càng ngày càng bớt đi. Nhưng nếu anh Ransome có thể nói cho chúng tôi biết anh ta ở đâu lúc 11 giờ, thì chúng tôi sẽ loại trừ được giả thuyết đó.”

“Cả buổi tối họ ở chỗ Guy Williams. Ông ấy là một nhà sản xuất và sống ở mé bên kia thành phố.”

“Tôi hỏi để biết chắc xem liệu lát nữa họ có quay về sớm không.”

Ông Gordon liếc nhìn đồng hồ.

“Trong vòng một tiếng nữa là họ có mặt ở đây thôi. Donald nói cậu ấy sẽ về lúc 2 giờ.”

“Biết đâu lời khai của họ rất hữu ích,” tiến sĩ Twist nói tiếp. “Chẳng hạn như con gái ông có thể tiết lộ một vài điều về tính cách anh chàng thư ký. Trong lúc chúng ta chờ đợi, ông Gordon, tôi có thể xem nhanh bộ sưu tập vũ khí của ông – với tư cách một kẻ nghiệp dư thôi, được không?”

Suốt mười lăm phút tiếp theo, cuộc trò chuyện tập trung vào lĩnh vực đạn đạo, một chủ đề mà tiến sĩ Twist không hề nghiệp dư tí nào. Về sau, cuộc trò chuyện chuyển sang các vụ án lừng danh, mà một vài nhân vật chính trong đó đã được lưu danh muôn thuở bằng sáp hoặc thạch cao ở bốn gốc phòng. Hai nhà thám tử không thể không quan sát qua mô hình bác sĩ dịch hạch đã được nhắc đến trong câu chuyện của Peter Moore, nó được đặt trong một hốc tường gần cái két. Nhưng một lần nữa Twist lại ngăn không cho bạn mình có ý kiến gì.

“Tôi có thể hiểu rằng đích thân ông tạo ra một số bức tượng này phải không, ông Gordon?” Twist hỏi, dừng lại trước bức tượng bác sĩ Crippen.

“Vâng, đó là một sở thích của tôi. Nó giúp tôi thư giãn và thoát khỏi vòng lặp hằng ngày mà vẫn hợp với các đề tài tôi ưa chuộng. Nó mang lại nhiều cảm hứng cho tôi hơn là ngồi trước máy đánh chữ. Tiện thể, một phần tầng hầm ờ đây đã được thiết kế như nhà xưởng.”

“Hẳn là rất thú vị.”

“Các ông muốn đến xem không?”

“Thế thì tốt quá.”

Hurst, dù đang khá bực bội sau lưng hai kẻ đầy nhiệt tình kia, cũng cùng đi xuống hầm. Ông biết rõ bạn mình để hiểu rằng khi tìm được ai đó cũng đam mê nghiên cứu tội phạm học thì chẳng thể ngăn Twist lại được, ông sẽ đắm mình trong cuộc trò chuyện đến mức gạt bỏ hết mọi thứ khác. Ông có thể không tập trung chú ý vào những vấn đề cấp thiết của vụ việc hiện tại.

Ngay khi ông Gordon mở cửa gian xưởng, tiến sĩ Twist lập tức thấy lại những năm tháng thanh xuân của mình. Ông ngây ngất nhìn quanh như một đứa trẻ đã rất lâu không được tới cửa hàng đồ chơi.

Cụm từ ‘cửa hàng đồ chơi’ không chỉ là một ẩn dụ: có đủ loại búp bê, con rối, mặt nạ và hình nộm chất đầy trên các giá quanh bốn bức tường. Ấn tượng đầu tiên là về một cuộc vui của trẻ con, giống như cuộc họp mặt của những kẻ vui nhộn đang đăm đăm nhìn hay thì thầm vào tai người bên cạnh. Đám mặt nạ cũng không mang vẻ nanh ác như những thứ trên tầng. Dường như sâu trong tâm hồn ông Gordon vẫn là một đứa trẻ nhưng lạỉ không muốn khách khứa đến văn phòng mình biết điều đó, cho nên ông ta cất bất cứ kho báu nào có vẻ không ‘mang tính nghề nghiệp’ của mình xuống tầng hầm.

Nhưng càng nhìn gần người ta càng thấy băn khoăn, vì những cái đầu được tạo hình thô mộc với đường nét lờ mờ còn phần thân bị tháo rời lại tạo ấn tượng chúng sẵn sàng nhảy bổ lên bất kỳ lúc nào. Có gì đó thật sự không an tâm trong cái thế giới gồm toàn những khuôn mặt sơn vẽ tươi vui và những nụ cười đông cứng này.

Gian hầm được chia thành hai phần, bên phải dành cho các dụng cụ làm mộc, hàn nguội, sơn vẽ và thậm chí chế tác đồng hồ. Chắc chẳn chính gian phòng bên trái, với tất cả những sáng tậo của ông Gordon, mới thu hút sự chú ý của Twist. Sau khi xem qua vài con rối mặc quần áo sặc sỡ, ông quay sang vị chủ nhà. “Tuyệt vời, ông Gordon, quá tuyệt vời. Từ tất cả những gì tôỉ thấy ở đây, hẳn ông phải bỏ ra không ít thời gian…”

“Vâng, đúng là vậy,” nhà viết kịch xác nhận, hài lòng và hãnh diện thấy rõ nhờ vẻ quan tâm từ nhà tội phạm học. “Thật may, Donald thỉnh thoảng cũng giúp tôi một tay. Tôi chẳng cần ép buộc, mà là cậu ấy cũng ham thích những thứ này như tôi.”

“Khá dễ hiểu với một con người của kịch nghệ. Mặt nạ và đạo cụ là một phần vũ trụ cùa anh ta mà.”

“Tôi đoán chắc anh ta cũng rất thành thạo hóa trang,” Hurst nhận xét, lơ đễnh nhấc chân của một con rối lên.

“Chà, đương nhiên rồi, tôi phải thừa nhận vậy. Nhưng tôi đâu có ngu, ông thanh tra, tôi có thể hiểu ông ám chỉ đến lời thách thức đặc biệt khi bạn tôi diễn rất thành công các vai người chăn cừu Scotland, một người tình cả ghen và rồi một cảnh sát. Điều mà các ông vẫn tiếp tục nghi vấn, có phải thế chăng?”

“Không đâu, ông Gordon, tôi không nghĩ đến chuyện đó. Tôi đang nghĩ đến chuyện khác kia. ỐI!”

Hurst đột nhiên nhảy bật lại vài bước, một ngón tay run bắn trỏ con rốì ông vừa chạm vào.

“Ông thanh tra, chuyện gì thế?”

“Nó cử động. Tôi bảo đảm như vậy.”

Ông Gordon cố nén nụ cười. “Cho phép tôi giới thiệu Margot, với tài năng đặc biệt là có thể hạ cánh tay xuống và ngẩng đầu lên khi có người nhấc mũ của nàng, chắc là hành động vừa rồi đấy.”

“Nhờ hệ thống bánh răng à?” Twist hỏi, vẻ thích thú thấy rõ.

“Không, chẳng có gỉ phức tạp cả. Đó là một kỹ thuật phát minh từ thời Ai Cập cổ đại và được sử đụng, cùng nhiều phương tiện khác, đế bít lối vào các kim tự tháp. Khi phá phần đế của một ống dẫn, nó nhả cát ra và dần dần tạo không gian để cho các khối đá granite sập xuống, bít kín ngôi mộ. Margot sử dụng đúng nguyên lý đó: khi mũ của nó được nâng lên, tức là giải phóng một lượng cát nhỏ, cho phép một quả cân rơi xuống, quả cân đó nối với hai tay và đầu bẳng một đòn bẩy đơn giản…”

“Vâng, đơn giản như trò trẻ con.” Hurst lầm bầm, cẩn thận xem xét Margot.

“Vì sự quan tâm thấy rõ của ông, ông thanh tra, tôi sẽ cho ông xem một thứ còn kỳ diệu hơn nhiều: một người máy có thể đánh thắng cờ bất kỳ ai.”

Ông Gordon đi về phía một góc phòng, dịch chuyển vài ma-nơ-canh trông như mấy con bù nhìn lạc chỗ, và hãnh diện chỉ vào một cái tủ lớn có hai cánh cửa. Ngồi trên đó là một người Ấn Độ bằng kích thước người thật trầm ngâm bên một bàn cờ.

“Xin đừng nói với tôi đó chính là nguyên bản kỳ thủ của Maekel nhé!” Twist kêu lên, đầy vẻ ngưỡng mộ.

“Maelzel? Chưa bao giờ nghe đến,” Hurst làu bàu, đứng cách vài thước và nhìn cái tủ đầy vẻ ngờ vực.

“Không, dĩ nhiên là không rồi,” ông Gordon trả lời. “Chỉ là một bản phục dựng thôi. Bản gốc, như ông biết rõ, bị thiêu cháy ở Philadelphia. Nhưng, ông thanh tra, hãy lại gần hơn và mở hai cánh cửa ra. Ông không thể biết điều gì đang chờ đợi bên trong đầu.”

Hurst làm theo, với đôi chút lo lắng. Ông thận trọng mở cừa, như thể lo ngại một sinh vật độc ác sắp nhảy ra, sau đó trân trân nhìn cỗ máy phúc tạp. An tâm với một thứ chỉ là máy móc, ông khoác lác, “Tôi sẽ treo cổ tự sát nếu đống sắt vụn này có thể đánh thắng tôi.”

“Ngay lúc này, nó không thể hoạt động vì đang bị thiếu một thứ quan trọng,” ông Gordon nói. “Nhưng nếu nó hoạt động, tôi khuyên ông không nên đánh cược như vậy, trừ phi ông muốn kết thúc bằng việc lủng lẳng trên chiếc thòng lọng. Nó đã đánh bại Nữ hoàng Áo và cả Napoleon rồi đấy. Lời giải thích rất đơn giản: có một người nấp bên trong.”

“Cái gì? Bên trong đấy à? Một người bình thường làm sao vừa được.” Ông nhìn lại bản thân như thể đang tự ướm thử mình vào chiếc tủ.

“Hừm. Rõ ràng so với anh thì hơi khó,” Twist trả lời. “Thực tế, đó là một sĩ quan người Ba Lan bị cụt hai chân và rất giỏi chơi cờ. Trước mỗi ván đấu, cửa tủ được mở ra từng bên một, cho phép anh chàng đó ẩn sau cánh cửa vừa đóng. Khi cả hai cánh của đều đóng lại, anh ta chui vào hình người Ấn Độ rỗng ruột. Anh ta có thể quan sát ván cờ từ một cái khe nhỏ ở bộ râu và đặt tay vào bên trong người máy để di chuyển quân cờ.”

“Vâng, chỉ đơn giản vậy thôi!” ông Gordon nói, bật cười và nhìn viên thanh tra. “Anh ta lách vào phần thăn rỗng. Anh ta nấp bên trong người máy và…” Ông dừng lại khi nghe thấy tiếng động cơ xe hơi và tiếng đống cửa. “Tôi nghĩ con gái tôi và Donald vừa quay về.”