Chương 10: Bảy giả thuyết

Giả Thuyết Thứ 7

Đăng vào: 11 tháng trước

.

Peter Moore nhún vai vẻ chán chường, kết luận: “Họ bắt tay mà chẳng nói một lời và Donald Ransome đi ra cửa. Tôi vội rời đi không dám nấn ná thêm. Tôi không hiểu nổi. Xin hiểu cho, cá nhân tôi không có gì đối nghịch với ông Gordon hay ông Ransome, nhưng tôi cảm thấy không thể giữ riêng việc này cho mình.”

Tiến sĩ Twist và thanh tra Hurst im lặng nghe hết câu chuyện kỳ lạ, chỉ thỉnh thoảng mới trao cho nhau vài ánh nhìn.

“Anh đã hành động rất đúng khi đến chỗ chúng tôi,” viên thanh tra trấn an. “Đừng lo, câu chuyện của anh sẽ không rời khỏi nơi này đâu, ít nhất là hiện tại. Chúng tôi hiểu rõ vị thế của anh. Nhưng trước khi tiến xa hơn, chúng tôi cần hỏi anh một vài câu hỏi. Trong suốt cuộc đối đầu, anh có nhận thấy bất kỳ điều gì bất bình thường về ngày tháng, hay bất kỳ sai lệch gì không? Nói cho rõ ràng thì anh có nhận thấy bất kỳ ai nói dối ở bất kỳ thời điểm nào không?”

“Không, tôi không thế nói rõ các chi tiết ấy. Ví dụ, tôi không dám chắc ngày tháng mà họ nhắc đến, nhưng tôi có thể khẳng định, nghe rất kín kẽ, rất bình thường. Còn về chuyện bà Miller có nhân tình thật hay không, dù đó là ông Ransome hoặc ai khác thì tôi chịu. Thỉnh thoảng, họ có nhắc đến bà ấy, nhưng không để lộ chi tiết gì liên quan cả.”

“Thế anh có chợt nghĩ rằng có thể họ đang trích thoại một vở kịch, hay thậm chí là tập dượt một cảnh không?”

Peter Moore lắc đầu.

“Ý tưởng ấy nảy ra ngay từ đầu, rất tự nhiên, nhưng tôi không tin như vậy, vì một số lý do, mặc dù rất khó giải thích. Chẳng hạn như tại sao họ cứ tiếp tục như thế mãi mà không gián đoạn chút nào? Thật vô lý.”

Hai vị thám tử gật đầu tán thành, rồi Hurst nói tiếp: “Anh Moore, anh kể với chúng tôi rằng Donald Ransome chỉ mới hẹn hò với cô Sheila được vài tuần. Còn ai trước anh ta không? Một mối quan hệ trước đó ấy?”

Vị khách đỏ mặt thấy rõ, và hắng giọng trước khi trả lời, hiển nhiên đầy bối rối. “Có, nhưng không phải là một… xin nói là một người thuộc đẳng cấp khác hẳn. Thực tế là cả ông chủ tôi lẫn ông Ransome đều không muốn đề cập đến mối tình ấy.”

“Anh biết người này à?”

“Rất ít. Anh ta có tới nhà một hai lần.”

“Anh mô tả anh ta được chứ?”

“Cao tầm thước, khá trẻ, tóc quăn đen…”

“Họ tên anh ta là gì?”

“Tôi chỉ biết tên anh ta, David.”

Một nụ cười kỳ lạ xuất hiện trên gương mặt nặng nề của viên thanh tra.

“Anh có thể cho chúng tôi biết cô Sheila thôi gặp người đó từ khi nào, và vì lý do gì không?”

Sự thay đổi trong cuộc thẩm vấn khiến anh chàng thư ký ngạc nhiên.

“Tôi chẳng hề biết gì, ngoại trừ việc mấy tuần liền tôi không còn thấy anh ta và không nghe ai đả động đến anh ta nữa. Cũng bình thường thôi, xét đến mối quan hệ giữa cô Sheila và ông Ransome.” Anh ta nhìn dồng hồ trên tường. “5 giờ rồi. Tôi không ngờ lại muộn thế. Có lẽ tôi phải đi.”

Sau khi yêu cầu hai nhà thám tử hứa hẹn một lần nữa sẽ không hé lộ những gì vừa nghe kể, vị khách ra về. Tiến sĩ Twist tiễn anh ta tới cửa và quay lại phòng khách, thấy bạn mình đang rảo bước đi tới đi lui.

“Tôi đến chết mất. Nếu chuyện này không phải là một manh mối dẫn tới cái vụ lộn xộn phức tạp hồi tháng Tám thì tôi sẽ vô cùng kinh ngạc đấy. Có thể anh không tin, Twist, nhưng vừa nghe cậu ta mô tả Sheila Forrest giống một nàng búp bê xinh đẹp có mái tóc đen là tôi nhớ ngay đến buổi tối hôm ấy. Mấy người bạn nhạc sĩ của David Cohen sử dụng đúng cách diễn đạt này khi bàn tán về vợ chưa cưới của anh ta. Còn cái con búp bê kia, cái con trong nhà Miller ăn vận giống bác sĩ dịch hạch, và đặc biệt là những gì ông ta nói sau khi nhấc nó lên… Không thể có chuyện đó chỉ là sự trùng hợp. Tôi dám cá với anh bất kỳ thứ gì rằng vụ này có liên hệ đến vụ án mạng của Cohen. Đúng. Cách xử lý đầu tiên là gọi điện về văn phòng. Xin phép anh.”

Vài giây sau, giọng ông đã oang oang trên điện thoại, “Ừ, thanh tra Briggs. Nhưng đừng bảo anh ta là tôi gọi kẻo anh ta trốn biệt đấy. Được rồi, tôi đợi… Briggs? Cậu đang đi nghỉ à?… Dĩ nhiên là tôi rồi. Tôi cần một vài thông tin ngay. Lưu ý chuyện này nhé: trong khả năng có thể, hãy moi móc mọi điều liên quan đến Donald Ransome… Đúng, tay diễn viên ấy, và ông Gordon Miller cùng cái chết của vợ ông ta. Một việc nữa: lục lọi xem có lấy được tấm ảnh nào của con gái ông ấy là Sheila Forrest không… Con gái hay con gái riêng của vợ mà chả thế!… Ý cậu là sao, ở chỗ nào á? Sử dụng cái đầu mình đi, anh bạn, không khó khăn lắm đâu! Xong xuôi thì đến câu lạc bộ Cohen vẫn sinh hoạt… David Cohen chứ ai, cái anh chàng chúng ta tìm thấy trong thùng rác. Anh ta có một cô người yêu mà đến giờ vẫn chưa xác định được… Đúng rồi, tôi nghĩ có khả năng cô ta chính là con gái nhà viết kịch. Hôm nay cậu chậm chạp thế. Và thận trọng quá mức… Rất tốt. Gặp cậu sau nhé.”

Thanh tra gác ống nghe, nở nụ cười hài lòng, rồi ngồi phịch xuống ghế.

“Kể hết cho tôi nghe đi nào, Archibald,” tiến sĩ Twist lên tiếng, nhìn bạn mình với ít nhiều thích thú. “Có vẻ anh nắm rõ vụ này hơn tôi.”

“Ôi chà,” Hurst nhũn nhặn đáp. “Cứ tạm gọi là có đôi chút ánh sáng phía chân trời đi. Giờ ngẫm lại, toàn bộ câu chuyện nhảm nhí trước và sau án mạng hồi tháng Tám đã chứng minh rất hùng hồn về tư duy rối rắm của mấy tay tác giả. Lẽ ra chúng ta phải nhận ra sớm hơn, vụ việc thấp thoáng có bàn tay nghệ thuật nhúng vào. Màn đạo diễn đại quy mô và kinh khủng đến mức chỉ có thể khởi phát từ hai nhân vật nghệ sĩ nhất Luân Đôn này: Gordon Miller và Donald Ransome. ‘Nghệ thuật của chúng ta: trò chơi và án mạng’ như ông Gordon nói, lúc nhìn con búp bê bác sĩ dịch hạch. Với tôi, mọi việc xem chừng đã khá rõ ràng rồi. Và đừng quên bác sĩ Marcus nổi tiếng, ‘Bác sĩ Tội phạm’. Tôi dám đánh cược rằng hai tay này đều dính líu sâu vào vụ Cohen. Bác sĩ Marcus, bác sĩ Sheldon và bác sĩ Ross, chúng ta chưa xác định được gã nào là gã nào, nhưng giờ chúng ta biết tên thật của chúng: Miller, Ransome và Kosminski – kẻ có lẽ chỉ là một tòng phạm rất phụ. Nếu đúng là, và tôi tin chắc là, người yêu của David Cohen không phải ai khác ngoài Sheila Forrest, thì đó sẽ là một động cơ rất tuyệt vời. Miller nhìn nhận Cohen như một nỗi ô nhục tiềm tàng đối với thanh danh gia đình và Ransome thì theo đuổi cô gái. Cả hai đều muốn loại bỏ anh chàng nhạc sĩ lôi thôi kia.”

Tiến sĩ Twist mân mê bộ ria.

“Có lý đấy, nhưng tất cả chuyện này, với việc biến mất rồi tái xuất hiện của nạn nhân, chỉ để loại bỏ một kẻ gây rối thôi sao? Có lẽ nào động cơ của vụ án là như anh nói, cốt để trừ khử chàng trai một cách kín đáo? Hay như anh phán đoán, hai kẻ tình nghi của chúng ta coi mình là thiên tài tội phạm và vô duyên vô cớ phạm một tội ác chỉ để mua vui cho bản thân. Là thế nào đây?”

“Nhưng hai lý do không phải là không tương hợp. Có người cản đường họ: tại sao lại không trừ khử và tiện thể vui vẻ một chút chứ?”

“Tôi bắt buộc phải thừa nhận rằng nhãn quan của họ về cuộc sống có thể chịu ảnh hưởng bởi nghề nghiệp, nhưng bọn họ không điên. Khi anh có lý do để giết người, nói cách khác là có một động cơ để người ta lần ra anh, anh không đời nào mua vui cho mình bằng việc chấp nhận những rủi ro không cần thiết. Nghĩa là, tôi thực sự tin rằng bọn họ – hoặc một trong mấy người họ – có can dự vào vụ án mạng của David Cohen bằng cách này hay cách khác, dù thế nào đi chăng nữa. Nhưng chúng ta hãy tạm gác chuyện đó sang một bên. Chuyện khẩn cấp ngay lúc này là cần tìm hiểu xem liệu lời thách thức mà Peter Moore nói đến có phải là một trò đùa không, hay đúng là có một vụ án mạng đang được chuẩn bị.”

“Cứ đợi Briggs quay về với tín tức mới thu thập được đi,” Hurst trả lời, mắt liếc nhìn điện thoại, “rồi chúng ta sẽ biết thêm. Nếu vụ chết đuối của Anna Miller có dấu hiệu đáng ngờ, thì suy ra họ – hoặc một trong hai người họ – không nói dối. Nghĩa là họ quả thực rất ghét nhau và chúng ta phải xem xét vụ việc này một cách nghiêm túc.”

“Lạy Chúa, anh biết rõ hơn tôi rằng cách điều tra như thế sẽ tiêu tốn rất nhiều thời gian và chưa chắc đã hé lộ được bằng chứng gì mới mẻ. Tốt hơn hết chúng ta sẽ xử lý bằng những gì chúng ta đang biết thôi, cân nhắc mọi giả thuyết có thể, và tiến hành bằng quy trình loại trừ.” “Tôi cũng nghĩ thế,” viên thanh tra nói kèm theo nụ cười của một người chơi bài poker (ở trình độ nhập môn) vừa mới có được bốn quân át. “Thực tế tôi nhìn thấy sáu giả thuyết.”

“Hôm nay tế bào chất xám của anh làm việc quá sức rồi, bạn của tôi! Tôi lắng nghe đây.”

“Nếu anh có bất kỳ lý lẽ phản bác nào, đừng ngại ngắt lời nhé. Như thế này đây:

“Một. Gordon Miller và Donald Ransome bịa ra mọi việc để mua vui, khiến anh chàng thư ký mắc lỡm.”

“Cho phép tôi ngắt lời anh luôn. Họ không hề biết Peter Moore đang nhìn qua lỗ khóa.”

“Tán thành lời phản đối.

“Hai. Peter Moore nghĩ ra toàn bộ vụ việc từ đầu tới cuối. Xem xét vài động cơ có thể nào. Hãy tập trung vào động cơ phiền toái nhất, rằng chính anh ta đang lên kế hoạch giết người với những manh mối nhắm tới Miller hoặc Ransome. Và câu chuyện này giúp anh ta thoát khỏi diện tình nghi.”

“Nếu đúng như vậy, tôi ngả mũ bái phục Moore. Một âm mưu phi thường! Tuy nhiên tôi không thấy thuyết phục. Quá nguy hiểm cho anh ta. Hôm nay, Moore kể cho chúng ta về cuộc đọ sức kỳ lạ và ngày mai có một vụ giết người gán cho Ransome nhưng lại chỉ ra Miller là thủ phạm, ví dụ thế. Chúng ta vạch trần kẻ tình nghi dựa trên câu chuyện Moore đã kể. Hai người ấy sẽ cực lực bào chữa cho bản thân một cách chính đáng. Và kiểu gì chúng ta cũng phải quay lại khả năng anh chàng thư ký nói dối và đánh dấu hỏi vào anh ta. Bởi thế có thể loại bỏ giả thuyết này được.”

“Ba. Miller, Ransome và Moore đều có dính líu. Tại sao ư? Để khiến điều tra viên đi chệch hướng khỏi một tội ác họ đang lên kế hoạch tiến hành. Xem ra rất phức tạp và, suy đến cùng, rất nguy hiểm. Có thể là một trò đùa nhắm tới hai chúng ta chăng?”

“Giả thuyết này cũng phải loại bỏ. Họ quen biết chúng ta, nhưng đâu thấu hiếu sâu sắc lắm để mạo hiểm đùa như thế. Chưa hết, trong câu chuyện của Peter Moore có một chi tiết phủ nhận giả thuyết này: sự thật là ông Gordon có lựa chọn con búp bê ‘bác sĩ dịch hạch’ Nếu xét đến thực tế rằng chúng ta đều biết chắc ông ta hoặc Ransome, hoặc cả hai, có can dự vào cái chết của Cohen, có họa điên họ mới để lộ một manh mối khiến mình dây dướng với vụ án đó.”

“Dĩ nhiên,” viên thanh tra đồng ý, giọng thoáng chút tiếc nuối. “Đây là giả thuyết ít bi thảm nhất, nhưng tôi đồng ý với anh.

“Bốn. Moore và Miller cùng một phe và nghĩ ra câu chuyện từ đầu tới cuối. Nếu thế thì mục đích của họ là gì? Nhằm vào Ransome chăng? Tôi không thấy vậy. Đánh lạc hướng chúng ta chăng? Khả năng này đã bị bác bỏ. Như thế chỉ còn lại vụ án mạng sắp tới. Họ chuẩn bị giết ai đó, có lẽ là kẻ thù của một trong số họ, khiến cho ông Gordon bị buộc tội, minh chứng cho câu chuyện của Moore, từ đó hướng mọi nghi ngờ vào Ransome. Cộng thêm vài manh mối được thiết lập tinh vi, cuối cùng Ransome sẽ bị gán tội.”

“Đúng,” Twist ngập ngừng nói, tay vặn dọc cái tẩu của mình, “dù miên cưỡng. Nhưng tôi cũng vẫn đưa ra phản bác như lúc trước: tại sao lại đưa một con búp bê ‘bác sĩ dịch hạch’ vào câu chuyện của họ?”

“Quả thật, điểm này đáng lưu ý. Nó không có giá trị trong giả thuyết thứ năm, vốn cũng giống giả thuyết thứ tư, nhưng lần này là Moore và Ransome cùng một phe.

“Giả thuyết thứ sáu và cũng là cuối cùng. Peter Moore đã tường thuật chính xác những gì anh ta thấy và nghe. Nghĩa là ông Gordon và Ransome nhất trí về một lời thách thức chết người. Nghe qua hết sức lạ thường và thậm chí lố bịch, nhưng tôi không thấy lựa chọn nào khác. Lý lẽ phản bác của anh là gì, Twist?”

Nhà tội phạm học vẫn im lặng, một tay che trên mắt, tay kia giữ tẩu thuốc. Ông đắm chìm trong suy nghĩ đến quên cả châm lại tẩu.

Một lúc sau, ông nói, “Có một giả thuyết thứ bảy nữa, Archibald.”

“Giả thuyết thứ bảy ư? Nhưng tôi nghĩ tôi đã tính hết mọi khả năng rồi.”

Đằng sau cặp kính, mắt tiến sĩ Twist lóe lên kỳ lạ.

“Đúng, dĩ nhiên rồi, xét theo khía cạnh toán học. Nhưng trong nghề này, chúng ta không chỉ giải quyết vấn đề khoa học nhàm chán, tuân theo những quy luật nghiêm ngặt và cứng nhắc đến mức chẳng giúp gì cho cuộc điều tra. Anh có thể đặt bao nhiêu ẩn số vào một phương trình tùy thích, nó vẫn dễ giải quyết gấp trăm lần một vụ án hình sự nào đó. Bởi, trong các vụ án có một nhân tố tối quan trọng mà không khoa học nào lý giải đầy đủ được: nhân tố con người.

“Anh bảo đã tính hết mọi khả năng, thật là sai lầm nghiêm trọng. Phân tích của anh xây dựng trên một nguyên tắc chỉ đúng ở khía cạnh nhất định, còn thì hạn chế một cách nguy hiểm khi xem xét từ khía cạnh khác. Anh khăng khăng việc này là đúng hay là sai, anh A nói thật hay dối. Nhưng hãy nhớ cho rằng, nói dối không phải hành vi cố định. Có lúc người ta nói dối chút ít, vô thưởng vô phạt, nhưng gặp tình huống khác người ta lại nói dối rất nhiều, nói dối ghê gớm. Giữa những người chuyên môn nói thật và những người chuyên môn nói dối vẫn tồn tại những người chỉ nói dối ở chừng mực nào đấy. Chưa kể cách thức và bản chất của sự dối trá ấy lại còn thiên biến vạn hóa. Một số người che giấu sự thật để tránh phiền phức, số khác làm vậy cốt mua vui. Rồi có người chỉ nói dối trong những chủ đề nhất định… Nhưng tôi sẽ dừng ở đây thôi, nếu không danh sách dài lắm.

“Cho đến giờ, tình hình vẫn tương đối bình thường, nhưng mọi việc sẽ phức tạp hơn hẳn khi chúng ta phải xử lý những người mà phản ứng của họ chẳng theo quy luật logic nào cả, những người phun ra toàn điều vô nghĩa và sáng tạo toàn chuyện bịa đặt.”

“Nói cách khác là những kẻ điên,” viên thanh tra kêu lên.

“Đúng vậy. Nếu tính điên ấy bộc lộ rõ ràng thì không thành vấn đề. Nhưng nhiều khi…”

“Điều anh đang muốn nhấn mạnh,” Hurst ngắt lời, “xem chừng rất phù hợp với vụ này. Hãy nhớ lại lời khai của cảnh sát Watkins, rồi vợ chồng Minden chủ nhà của Cohen, và giờ là câu chuyện kỳ lạ theo lời kể của anh thư ký. Mọi chuyện chúng la nghe được đều nhuốm màu hoang đường qua miệng những kẻ hoang đường, Họ điên cả rồi, Twist, anh nghe tôi nói chứ? Điên rồ, lũ loạn óc, bị chập mạch…”

“Khoan đã, đừng quá nản lòng, ông bạn. Suy cho cùng, có vẻ anh đi đúng đường rồi. Điểm duy nhất tôi muốn nói là mọi việc không phải lúc nào cũng đơn giản, và chúng ta không tính được hết mọi nhẽ. Chân lý ấy được khẳng định qua tất cả các vụ điều tra: lời giải duy nhất chúng ta không nghĩ đến lại thường là lời giải đúng. Đó là lý do khiến tôi nhắc đến già thuyết thứ bảy, giả thuyết vẫn đang nằm ngoài tầm với của chúng ta.”

“Được đấy, nhưng nó cũng không mang tới bước tiến nào đáng kể. Đôi khi anh rất hài hước, Twist ạ: Tôi đặt ra rất nhiều khả năng khác nhau, anh lần lượt bác bỏ từng cái hoặc gần như vậy. Anh làm đục nước bằng những lời bay bổng mà chẳng có ý nghĩa gì. Và anh đắc thắng nói về một giả thuyết khác, chỉ để thú nhận anh củng không biết nó là gì. Giờ thi anh sẽ mời tôi một ly rượu mạnh tuyệt hảo để lên tinh thần cho tôi chứ?”

Twist cười tươi và làm đúng như vậy. Bữa rượu lên tinh thần diễn ra trong im lặng, sau đó chuyên gia tội phạm bọc đi tới bên cửa sổ và nói, “Tôi nghĩ anh nói đúng, Archibald, không cần phải phức tập hóa bất cứ điều gì ngoài những điểm cần thiết. Điều quan trọng ngay lúc này là cần kiểm tra xem thực tế thì liệu Ransome và ông Gordon đã bắt tay thực hiện lời thách thức chưa. Nếu rồi thì mạng sống của một con người đang gặp nguy hiểm, và tôi xin nói thêm, cơ hội sống sót của người đó rất mong manh. Chúng ta phải hành động, nhưng tôi không chắc nên làm như thế nào. Thẳng thừng nêu vấn đề với họ chăng? Nhưng chúng ta sẽ không tin tưởng họ nên cuổi cùng cũng khó mà gặt hái thêm điều gì.”

Tiến sĩ Twist áp mũi vào chiếc ly và dường như đắm mình trong không khi trầm mặc của thủ đô, vốn đang chầm chậm chìm vào bóng tối và sương giá. Ông rầu rĩ nói tiếp, “Chúng ta không thể cứ đứng ở đây, Archibald, một mạng người có thể đang gặp nguy hiểm… và tôi cảm nhận được mùi tội ác trong không khí.”