Hồi 74: Họa Giáng Thần Tự

Đoạt Hồn Kỳ

Đăng vào: 2 năm trước

.

Nam bút Gia Cát Dật và Tây đạo Thiên Si bước gần lại phía thiếu niên nằm bất tỉnh dưới đất, chỉ thấy thiếu niên nằm bất tỉnh dưới đất, chỉ thấy thiếu niên hai mắt nhắm chặt, sắc mặt trắng bệch như vôi. Tây đạo Thiên Si không nhận ra thiếu niên bất tỉnh này là ai, lúc này lạnh lùng rằng:

– Bộ đây là mặt thật của Tỉ Vương ma quân đó sao?

Nam Bút đứng cạnh lên tiếng ngay:

– Thưa sư huynh! Đây chính là sư điệt Thượng Quan Linh của ngài, chuyện này phải truy cho ra manh mối mới được!

Trong những ngày tháng bị giam hãm trong mật lao Nhuyễn kim này, Đông tăng Túy Đầu Đà thuật rõ về đồ đệ của sư đệ Nam Bút, nào ưu tú ra sao! Nào khôn lanh như thế nào. Túy Đầu Đà vốn không thu môn đệ, nhưng lại rất mến thích sư điệt Thượng Quan Linh, trong lúc kể chuyện, đương nhiên không tránh khỏi lòng thiên vị cho sư điệt, phịa hết chỗ can! Làm như vị sư điệt sắp trở thành nhân vật đệ nhất trong thiên hạ không bằng. Từ ngày xảy ra vụ án ở Cửu U Địa Khuyết tại Vạn Tính Công Phần, Thiên Si đạo trưởng quả nhiên chưa hề gặp Thượng Quan Linh hồi nào, nên không sao phán đoán đích xác được, trong lòng chỉ có một ý niệm, cho rằng Thượng Quan Linh bất quá cũng như đến ái đồ Chu Hoàng (Hầu Hạo) của mình là cùng. Mãi đến sau, Nam Bút cũng bị bắt và giam vào mật thất đây mới kể rõ đầu đuôi câu chuyện kỳ ngộ của Thượng Quan Linh và đồ đệ Tây Đạo là Chu Hoàng, hiện nay hai chàng thiếu niên anh hùng đang bước dần lên thang danh vọng của làng võ lâm!

Nay thấy hai sư đệ Nam Bút và Đông Tăng rối rít lên vì Thượng Quan Linh, đều cúi sát xuống thăm thương thế và kiểm soát xem có phải chàng không! Nhưng…

Tây đạo Thiên Si vẫn hồi hộp, vội nhắc tỉnh cho hai sư đệ:

– Hãy coi chừng, không lại mắc mưu của Tỉ Vương?

Chỉ thấy Nam Bút và Đông Tăng vội vã xem xét, bỗng Túy Đầu Đà nước mắt dầm dề rằng:

– Trời ơi là trời, chính hắn đây? Tội nghiệp cho sư điệt! Tôi biết rõ những vết kín trong người hắn, dù cho Tỉ Vương có giỏi thuật dị dung đến đâu, cũng không thể nào biết các vết kín đáo của nó được!

Thiên Si thấy vậy mới yên dạ ngồi xuống, giọng Nam Bút run run nói:

– Tội nghiệp Linh nhi, nó đã cải dạng Bắc Ưng Lãnh Lạc, nên mới lừa được tên Biện Trang Hổ để cứu anh em chúng mình, khổ nỗi chúng mình lại không phát giác sớm, chúng mình ra tay hợp sức như thế, làm sao nó chịu nổi, nếu không nhờ kỳ công Tuyết bi tiên hoa chắc nó chết về tay chúng mình rồi!

Túy Đầu Đà Đông Tăng dậm chân than rằng:

– Trời! Bây giờ làm sao đây!… Tại sao hắn lại không gọi một tiếng Túy sư bá để đến nông nỗi này!… Rõ khổ thân chưa?…

Tây đạo Thiên Si bình tĩnh hơn, vội lên tiếng ngay:

– Hai sư đệ chớ vội hoảng lên thế, hãy mau ngồi xuống, giúp sức khôi phục ngay cho nó!

Câu nói nhắc tỉnh luôn hai người, vội ngồi thụp ngay xuống, mỗi người đưa ra một chưởng, đều áp ngay vào lưng và ngực của Thượng Quan Linh, từ từ ép nội lực ra để giúp thiếu niên khôi phục lại. Thiên Si đạo trưởng dùng luôn song chưởng áp hết vào phía sau Thượng Quan Linh, thế là cá ba vị cao thủ tuyệt đỉnh lo ép nội lực giúp cho chàng.

Thượng Quan Linh lúc này vẫn còn tri giác, chàng cẩn thận vận khí hiệp lực với sư phụ cùng hai sư bá để điều hòa trị thương khiến cho khí huyết nghịch trở nên thông suốt qua thập nhị trọng lâu phục qui khí hải, khạc một tiếng, Thượng Quan Linh nhả ngay ra một búng máu tươi.

Tây đạo Thiên Si thở dài khoan thai rằng:

– Thôi! Khỏi lo nữa!

Nhưng Nam Bút và Đông Tăng rất mến Thượng Quan Linh, hai người vẫn chưa chịu buông tay. Sau một lúc, Thượng Quan Linh đã cảm thấy khỏe khoắn, chàng vội cất tiếng:

– Đa tạ nhị sư bá và sư phụ! Đệ tử đã khỏi hẳn.

Nói xong tính đứng ngay dậy làm lễ bái kiến. Đông Tăng và Tây Đạo bèn khuyên hãy tỉnh dưỡng, chớ nhiều lễ lúc này mà trở ngại cho sức khỏe. Đông Tăng cưng sư điệt nhất, Túy Hòa Thượng đưa ngay bầu rượu của mình kề ngay miệng cho sư điệt hớp một ngụm cho máu huyết lưu thông. Dần đà mặt Thượng Quan Linh đỏ gay vì hơi men, bốn thầy trò ngồi ngay nơi mật thất kể sơ về những cuộc chia tay bấy lâu.

Thượng Quan Linh lúc này mới hay hai vị sư bá và ân sư của mình bị nạn ra sao! Thoạt tiên là sư bá Bắc kiếm Phổ Côn bị Tỉ Vương uy hiếp bắt phải mời gọi ba sư đệ đến, Phổ Côn trước mắt tìm đến nhị sư đệ Tây đạo Thiên Si, lừa hai sư đệ đến miền Mạc Bắc của thành Bách Linh Miếu, khuyên Tây Đạo nhập vào đảng Tỉ Vương, Thiên Si không chịu, dùng lời đại nghĩa khiển trách và khuyên sư huynh Bắc Kiếm nên quay về con đường chính nghĩa!

Nhưng Bắc Kiếm bị mắc thế kẹt vào tay Tỉ Vương đành phải nghe theo lệnh của ma quân, cầm tù ngay nhị sư đệ Tây Đạo tại Mạc Bắc, và đem giam ngay vào mật thất này để làm mồi nhử thêm hai sư đệ là Đông Tăng và Nam Bút, Tây Đạo phần vì cô thân yếu thế, phần nghĩ tình sư huynh, nên cũng chẳng buồn phản kháng làm gì, yên trí ngồi tù trong Nhuyễn kim lao. Sau sư đệ Đông Tăng tìm đến, nhưng vì đánh không lại dư đảng của Tỉ Vương, nhất là sự hợp lực công hãm của Lam y sứ giả, Lân vương Cổ Thái Huyền và Lỗ Yểu Nương, âm ty tú tài Trần Thân, đành tình nguyện vào thạch thất để ngồi tù với sư huynh Tây Đạo! Sau cùng đến Nam bút Gia Cát Dật, từ ngày chia tay rời khỏi Bắc Ưng trang viện, và phát giác Thượng Quan Linh giả đi chung với Tỉ Vương và y đã giết lạc đà để thị oai với mọi người! Thế là ba người chia ra ba ngả: Liễu Mi quay về Bắc Ưng trang viện để cứu Thượng Quan Linh, Sở Canh lo về Trung Nguyên cầu viện cứu cấp, Nam Bút đơn thân dấn mình phó hội Bách Linh Miếu. Không ngờ sau khi đến nơi, lập tức bị trúng kế hiểm độc của Tỉ Vương, chỉ thấy đao kiếm kề ngay cổ Bắc Kiếm để uy hiếp Nam Bút, vì tình thủ túc sư huynh đệ bấy lâu, không nỡ thấy cánh sư huynh già tuổi mà chết về cảnh đầu rụng như thế, đành hiên ngang nạp mình vào chung luôn nhà lao với hai sư huynh luôn. Cả ba sư huynh đệ đều nhất quyết không chịu sự cám dỗ oai bức của Tỉ Vương ma quân, ai nấy coi chết nhẹ như lông hồng, khiến cho tên Tỉ Vương cũng đành thúc thủ chưa biết tính kế gì để đối phó!

Mãi nay, Thượng Quan Linh lại cứu cả ba sư huynh đệ, thấy được vị nối nghiệp thiếu niên anh hùng như thế, ai nấy đều khoan khoái trong lòng vô ngần. Thượng Quan Linh cũng lo thuật hết mọi việc mà mình đã đụng độ và đến lúc vào cứu ba vị tiền bối, ai nấy vừa kinh hãi vừa khâm phục thầm Thượng Quan Linh, đều phải công nhận hậu sinh khả uý. Sau khi rõ mọi sự, thầy trò bốn người khiêng Biện Trang Hổ giam ngay vào Nhuyễn kim lao rồi mọi người rời ngay khỏi thạch thất bí mật.

Thượng Quan Linh lúc này canh cánh lo đến thân phận của người yêu Liễu Mi, tính đi cứu ngay, Nam Bút đành dặn chàng hãy đi trước, còn ba vị tiền bối sẽ lo tiếp ứng sau!

Lúc này trời đã bắt đầu sáng dần, Thượng Quan Linh lo đến sự an nguy của Liễu Mi, căn cứ theo manh mối, chàng biết ngay rằng hiện Liễu Mi đang bị giam cầm tại Thánh điện, hấp tấp đi ngay. Bụng lúc này nghĩ thầm, mình đã dùng lốt của Hắc y sứ giả Bắc Ưng Lãnh Lạc mà cứu được ba vị tiến bối, nay thử thêm một chuyến nữa cũng chẳng sao.

Nghĩ xong bèn sửa soạn nai nịt gọn ghẽ, nghiễm nhiên ung dung xuất hiện với lốt dạng của Hắc y sứ giả ngầm tiến về phía Thánh điện.

Trời sáng tinh sương, mọi cảnh im tịnh và lạnh, cửa Thánh điện đóng kín mít, lòng Thượng Quan Linh rối quýnh, chàng không do dự tìm ngay đến một cửa sổ đưa tay quạt ra một chưởng, cửa bung, toàn thân chàng vèo nhẹ vào như một làn khói đen, bên trong là ngôi đại thất, la liệt bày các pháp khí, cảnh im tịnh!

Thượng Quan Linh bất kể đến hậu quả ra sao, chàng tìm kiếm tứ tung hết ngôi Thánh điện. Nhưng chàng không phát hiện được một chuyện gì cả. Càng không biết Liễu Mi bị Tỉ Vương giam giữ tại đâu? Chàng bạo gan lần mò ngay thẳng lại đại Thánh điện để quan sát. Chỉ thấy một tượng Phật nguy nga oai vệ, đèn nhang trên hương án nghi ngút, không khí khắp trang điện âm u rờn rợn. Dưới hương án một lò lửa đang cháy phừng phừng, không hiểu đốt gì bên trong, chỉ thấy ngọn lửa xanh lè. Thượng Quan Linh nghĩ nay đã mùng chín, mai là mùng mười Tết, cũng là ngày mà Tỉ Vương khai đàn lập giáo, và sẽ làm lễ tế thần để thiêu sống người yêu của mình trong tước vị Thiên Hậu Nương Nương, nhưng giờ đây nàng ở đâu? Càng nghĩ càng quýnh. Trong cơn rối trí, mắt Thượng Quan Linh vô tình liếc về phía sau hương án, chàng phát giác như có gì lạ ở Thánh kham (cái trang để thờ cúng thần Phật), chàng bước gần lại vào đưa tay rờ ngay vào Thánh kham!

Cạch một tiếng, thì ra phía dưới Thánh kham được ngầm đặt một miếng ván hoạt động mở hoác hẳn để lộ một miệng hố vừa đủ cho mọi người tiến vào, bên trong ẩn hiện ánh sáng, nhưng không nhìn rõ bên trong có gì quái lạ? Thượng Quan Linh tần ngần một hồi, cuối cùng chàng quyết tâm vào trong thám thính, vì Liễu Mi, nên chàng không ngần ngại gì? Sau khi vào, chàng đóng trái cánh ván và nó tự động khép lại như cũ. Đi không bao lâu bỗng chàng ngửi thấy một mùi thơm là lạ, và nhờ ánh sáng trên vách, chàng nhận ra nơi mình đứng hình như là một khuê các của thiếu nữ thì phải, trong này trang hoàng lộng lẫy xa hoa. Không xa lại có một cỗ nha sàng (giường ngủ bằng ngà), cẩm trướng buông phủ sát chân giường, bên trong hình như đang có vị tuyệt sắc giai nhân nằm phơi thân ngọc. Chàng hồi hộp bước lại, cũng chẳng cần nghĩ gì đến lễ giáo Thọ thọ nữa, đến gần sàng, đưa tay vén ngay cẩm trướng lên, chàng mừng như điên khẽ reo lên:

– Em! Liễu Mi… – cúi thân xuống ôm ngay người ngọc vào lòng thủ thỉ: – Liễu Mi… ngu huynh đã khổ sở đi tìm em, nay may nhờ trời run rủi, nên ngu huynh mới gặp em đừng sợ… chúng mình sẽ trốn ngay khỏi nơi nguy hiểm này …

Nhưng người ngọc trong lòng không có phản ứng gì… Thượng Quan Linh phát giác có chuyện lạ, chàng thấy Liễu Mi trong lòng mình lúc này mắt nhắm nghiền, toàn thân lạnh cứng, tim đã ngừng đập! … Thượng Quan Linh vô cùng tuyệt vọng và đau khổ! Không ngờ khi mình tìm ra được người, chỉ còn lại một cỗ xác không hồn. Chàng không biết Liễu Mi bị thiệt mạng bằng cách nào, chắc đã bị tên Tỉ Vương vùi liễu dập hoa mà chết, hoặc nàng thấy tuyệt vọng, tự tìm cái chết!

Thượng Quan Linh đau khổ… chàng lẩm bẩm:

– Liễu Mi em ơi!… em đã đi trước anh như thế, hỏi ngu huynh còn sống ở đời này làm gì nữa. Em! Em hãy chờ anh nơi suối vàng, anh sẽ lại ngay để gặp em…

Chàng rút ngay ưng trảo liêm tính đâm ngay vào ngực, chợt chàng nghĩ lại, từ khi mình ăn Tuyết bi tiên hoa, ngoài trừ hai thứ Lãnh điện tỉ thủ và Tiểu Đoạt Hồn Kỳ là những binh khí có thể giết mình ra, những binh đao khác không làm gì được thân mình, chàng lại thất vọng buồn bã, muốn chết mà cũng không được! Lúc này chàng lại đâm ra oán trách Tuyết bi đã làm khổ cho chàng ! …

Thượng Quan Linh ôm xác người ngọc ngồi thừ như phỗng, sự bi ai quá mức đã khiến chàng tê dại khắp tâm thần, linh hồn chàng như đã rời khôi xác. Ngay lúc này, bỗng lại có chuyện lạ xảy ra. Chỉ nghe tiếng tranh luận của hai người, mỗi lúc một lớn dần, một tiếng kiên quyết rằng:

– Thưa thầy! Con đã quyết tâm thử xem!

Tiếng già nua rằng:

– Thôi đành vậy! Thầy nay đã ngoài bảy mươi, dù mai đây có chết, cũng không thể nói là yểu tướng, vậy con tội gì phải đi gửi gấm hy vọng vào người mình không quen biết bao giờ ấy!… Huống hồ người này lại là người mới vang danh hiệp nghĩa sau đây, nếu con làm phiền người ta, chẳng may có chuyện gì, chúng ta làm sao ăn nói…

Tiếng người trẻ lại nói:

– Kính bẩm sư tôn, đệ tử dù cho có tan xương nát thịt, cũng quyết không đời nào để sư tôn bị mất mạng thảm thê, dù cho là một hy vọng mỏng manh đến đâu, đệ tử cũng liều mạo hiểm một phen? May được trời phù hộ, chưa biết chừng lại thành công cũng nên. Nếu không…

Tiếng người già ngắt ngang ngay:

– Thầy hiểu ý con, nghĩa là con không chịu sự chi phối của thuyết định mạng, hơn nữa mai đây khó tránh một cái chết, chẳng thà thử một phen…

– Kính sư tôn, đệ tử quả có ý như vậy…

Thượng Quan Linh lấy làm lạ, nghe giọng nói người trẻ tuổi quen tai lắm, nghe câu chuyện này thì hình như học trò không nỡ để người thầy mai phải chết khổ sở, nên bàn tán tìm kế cứu giải, và cũng hình như hai thầy trò đang tính đi làm phiền đến một người nào không liên can đến họ. Thượng Quan Linh bỗng sực nghĩ, không lẽ người họ muốn làm phiền đó lại là mình đây sao?? sau một hồi im lặng, người già hình như cảm động về chân tình môn đệ, chỉ nghe tiếng thở dài của người già rằng:

– Thôi đành! Sự việc đã ra nông nỗi này! Liều xem vậy, con hãy ra đi là vừa, nhưng cần phải cẩn thận…

Tiếng chân bước gần đâu đây, trong khoảnh khắc, tiếng chân đã kề gần vào khuê các và im bặt lại. Thượng Quan Linh thò đầu khỏi trướng nhìn, một Lạt ma cao lớn xuất hiện ngay cạnh, hóa ra là Pháp Đô lạt ma, hèn gì Thượng Quan Linh nghe giọng nói quen tai.

Thấy hai mắt của Pháp Đô nhìn về mình, Thượng Quan Linh lên tiếng ngay rằng:

– Này Pháp Đô, người đừng có hòng nhờ cậy ta giúp gì trái lại ta muốn yêu cầu người giúp cho một việc, xin người hãy mau mau giết chết ta cho rồi! Được vậy, ta sẽ đội ơn người vô cùng nơi chín suối.

Pháp Đô lộ vẻ ngạc nhiên rằng:

– Tôn giá là người công lực siêu tuyệt và lại nhờ công hiệu của tiên hoa, ai mà có thể giết được tôn giá, tuy đang đứng trong tình trạng long đàm hổ huyệt (đầm rồng hang hổ) nhưng vẫn vững chắc như núi Thái Sơn, không hiểu sao tôn giá lại nói những lời tang tóc như vậy?

Thượng Quan Linh gượng cười đau khổ rằng:

– Không nói giấu gì đại Lạt ma, Liễu Mi đây vốn là ái thê chưa cưới của tại hạ, nay nàng chết đi như thế, quả thật tôi không thiết sống làm gì nữa, nhưng ác nỗi Tuyết bi tiên hoa đã hại tôi, khiến tôi muốn chết mà cũng không xong, nên nay phiền đại Lạt ma giúp tôi được toại nguyện…

Nghe xong câu nói của Thượng Quan Linh, Pháp Đô bỗng ngửng đầu lên, ánh mắt sáng ngời nhìn thẳng ngay vào mặt Thượng Quan Linh, rồi lẩm bẩm rằng:

– Xin Phật tổ khoan dung đệ tử…

Dứt lời khấn, Pháp Đô bước ngay lên một bước, với vẻ hy vọng tràn trề với Thượng Quan Linh rằng:

– Xin thiếu hiệp chớ vội kinh hoàng, thực ra Liễu Mi nữ hiệp không phải bị chết đâu…

Thượng Quan Linh vừa kinh vừa nghi, không dám tin tường, mắt tròn xoe chờ đợi sự giải thích của Pháp Đô lạt ma.

Nhưng vị đại Lạt ma lại khéo tránh chuyện, nói lảng sang việc khác rằng:

– Thiếu hiệp muốn cứu Liễu Mi nữ hiệp không có gì khó, đáng lẽ bần tăng tận tình giúp đỡ là khác, nhưng… không biết thiếu hiệp có chịu cho điều kiện của bần tăng đưa ra không…

Thượng Quan Linh chẳng cần suy nghĩ, gật đầu nhận ngay, chàng chỉ cần miễn sao cứu sống được Liễu Mi, còn về điều kiện của Pháp Đô, nếu sức mình có thể làm được, cũng chẳng cần phải khước từ? Trong ánh mắt Pháp Đô không sao giấu nổi nỗi vui mừng, lật đật bước gần lại trước cẩm trướng, giải thích rõ tình hình hiện tại.

Thì ra Tỉ Vương ma quân thần xuất quỉ nhập tung hoành dọc ngang trên giang hồ như thế để nô dịch quần hào sai khiến quần ma, nhưng y lại có một tánh tốt, không thích sắc đẹp. Nhưng không hiểu tại sao, khi y đội lốt của Bắc Ưng Lãnh Lạc để hiện thân với chức Hắc y sứ giả tại Lãnh Ưng Trang và khi gặp được thầy trò Nam Bút và Sở Canh cùng Liễu Mi, vị ma đầu này lại đâm ngẩn người mê ngay trang giai nhân thiên hương tuyệt sắc Liễu Mi, và muốn chiếm hẳn thuộc về mình.

Sự ngấm ngầm điều tra đã cho Tỉ Vương biết nàng là vợ chưa cưới của Thượng Quan Linh, và với bộ óc tinh vi nhiều mưu chước của con người đệ nhất ma đầu ấy, kế độc ngang nhiên được thi hành. Biết không thể dùng Lãnh điện tỉ thủ để giết, vì như vậy sẽ lộ chuyện ngay, nên đã sát hại Thượng Quan Linh bằng thuốc độc và nhốt chung với Bắc Ưng Lãnh Lạc, rồi đổi lốt thành Thượng Quan Linh để lừa Liễu Mi, nhưng nào hay thứ nữ Thanh Thông này quá thông minh, nên đã phát giác, khiến cho Tỉ Vương ma quân càng phục lại càng yêu mê thêm, nguyền chiếm nàng cho kỳ được. Sau khi Tỉ Vương khám biết Liễu Mi còn là xử nữ nguyên vẹn, lại càng quyết ý nạp làm thê thất và chính thức dùng Phi xà truyền thư thông báo là đã tuyển lựa được Thiên Hậu Nương Nương và mở ngay một cuộc vây bắt Liễu Mi như chúng ta đã thấy, và chính Pháp Đô là người đã nghênh giá Thiên hậu để đưa về đại thành Bách Linh Miếu.

Tỉ Vương giao ngay quyền trông coi Liễu Mi cho Pháp Đô, chuẩn bị đến mùng mười Tết sẽ đem ra làm lễ hy sinh tế thần với danh nghĩa Thiên Hậu Nương Nương xuất giá. Nhưng tại sao Liễu Mi không phản kháng, mà lại chịu để cho Pháp Đô đưa về Bách Linh Miếu? Bởi trong Lãnh Ưng Trang nàng phát giác Thượng Quan Linh đã tẩu thoát, và tin chắc thế nào người yêu cũng đến cứu mình, nên nàng chẳng hề chống làm gì, tha hồ để cho Pháp Đô áp tải. Còn phần Lạt ma Pháp Đô, cũng là người có lòng tốt, khi phát giác cửa vách thạch động bí mật của Lãnh Ưng Trang bị phá, biết đã có phạm nhân trọng yếu vượt ngục, nhưng y giấu nhẹm việc này trong bụng, sau khi đậy kỹ lại cửa hang khổng lồ ấy, khi về đến Bách Linh Miếu, nghiêm cấm các bộ hạ không được tiết lộ bí mật này ra.

Liễu Mi sau khi đến Bách Linh Miếu, nàng mất hết tự do. Dưới sự thiết kế tinh vi của Tỉ Vương, y lột trần hết y phục của người đẹp, để lộ nguyên một khỏa thể tuyệt đẹp dùng ngay một loại sáp đặc chế, thoa bôi ngay một lớp vào mình nàng Liễu Mi thành hẳn một bộ áo sáp tuyệt tinh xảo, chỉ chừa có hai lỗ mũi để thở. Lẽ đương nhiên khi thi hành xong bọc sáp lõa thể này, nàng Liễu Mi đã bị điểm huyệt kỹ, và nhờ bộ áo sáp tuyệt diệu ấy Thượng Quan Linh tường đâu người yêu mình đã chết.

Nếu bảo Tỉ Vương đang yêu say đắm nàng Liễu Mi vậy tại sao lại ngược đãi người đẹp như vậy? Ấy, chính đó là tất cả kế hoạch khéo léo của Tỉ Vương… bởi y hiểu rằng, Liễu Mi đã chết lòng về Thượng Quan Linh từ lâu rồi, nay muốn chiếm được tim óc của người đẹp đâu phải là việc dễ, nên y đã tận dụng tất mọi khả năng tuyệt vời của mình…

Với lệnh truyền rùng rợn bằng phi xà khiến cho toàn nhóm thủ hạ nghênh tiếp long trọng suốt dọc đường sa mạc, cốt để khiến cho Liễu Mi cảm thấy thế lực lớn lao vô cùng của Tỉ Vương mà sinh lòng sợ sệt! Rồi tất cả mọi biện pháp được tiến hành chu đáo, nay lại biến Liễu Mi trở thành, một người đẹp bằng sáp, để đem ứng dụng trong ngày khai đàn lập giáo, làm lễ hỏa thiêu Thiên Hậu Nương Nương để hiến dâng trinh nữ cúng tế thần linh, Tỉ Vương đã bố trí sẵn sàng hết, và cuộc lễ hỏa tế ấy sẽ do tay chơi lửa nhà nghề Lân vương Cổ Thái Huyền sắp đặt kế hoạch, nghĩa là dùng lửa đốt bộ áo sáp của Liễu Mi, nhưng lại không hề gây tổn thương đến da thịt của người đẹp, và khi đến giờ phút tóe lửa chớp nhoáng ấy, sẽ cho tỏa ra một đám khói mù mịt để che tai mắt mọi người, bức thạch đài tế lễ ấy sẽ tự động bật ra và trút ngay toàn thân Liễu Mi vào một đường mật đạo ăn tuốt đến thạch thất của Thánh kham này.

Đến khi đó, Tỉ Vương sẽ xuất hiện với lốt Thượng Quan Linh để chiếm cứ người ngọc Liễu Mi. Trong cơn kinh hoảng tột độ và liên miên sống trong trạng thái chập chờn với thần chết ấy, sự uy hiếp và cộng thêm một thủ đoạn ôn hòa trìu mến mềm dẻo, tin chắc thế nào cũng chiếm được trọn vẹn thể xác và tinh thần nàng. Quá là một kế hoạch tuyệt diệu khéo léo hết chỗ chê. Nay được Pháp Đô nói rõ hết ra, khiến cho Thượng Quan Linh không thể nào không kinh hãi cho được. Nhưng điều lạ, Pháp Đô vốn tay sai đắc lực của Tỉ Vương tại sao đem bí mật này kể cho Thượng Quan Linh hay?!

Sau khi chàng rõ đầu đuôi tự sự, biết người yêu chưa bị gì chàng vững dạ, cũng không vội hỏi Pháp Đô về cách thức cứu người! Mà chàng vào thẳng đề với Pháp Đô là muốn đánh đổi với điều kiện gì? Đại Lạt ma Pháp Đô đưa tay lên vỗ mạnh một tiếng, nơi phụ cận, lập tức có tên Lạt ma khác xuất hiện, Pháp Đô dùng tiếng Mông Cổ nói với họ một hồi, hai tên nọ lãnh mạng đi luôn. Lúc này Thượng Quan Linh mới nhận ra, thì ra Pháp Đô cũng cẩn thận chu đáo, khi bàn chuyện với mình, đã cho lo canh chừng bên ngoài để phòng hờ những tử đảng của Tỉ Vương… Trong chốc lát, có Lạt ma đem ngay cơm nước lại, Pháp Đô và Thượng Quan Linh ngồi đối diện với nhau ăn uống, trong bữa ăn, Pháp Đô kể ngay đến việc yêu cầu của mình.

Cách mười năm về trước đây, ngôi thánh tự điện Bách Linh Miếu vốn là một cửa Phật thanh tịnh nghiêm trang. Chủ trì Tang Kim đại lạt ma nguyên là vị cao tăng đắc đạo và cũng là sư tôn của Pháp Đô, võ công xuất chúng, nhiệm chức Giám tự Thánh tự, nên khiến cho ngôi cổ miếu của Mạc Bắc an ninh vô cùng. Nhưng nào ai có ngờ, cảnh thanh bình bỗng gây sóng gió, một kỳ họa đã tới ngôi Thánh tự giám. Từ đó trở đi, ngôi Thánh tự Bách Linh Miếu bắt đầu bị một bầu không khí tà ác bao phủ hết. Trong đêm đó, nơi ngủ của Pháp Đô, cách thiền phòng của thầy Tang Kim đại lạt ma không xa lắm vì thầy đã trên lục tuần, nên Pháp Đô thường hay quan tâm đến sức khỏe của thầy về đêm. Đêm ấy là một đêm lạnh cắt da, vào nửa đêm, Pháp Đô bỗng bị một âm thanh kỳ lạ đánh thức giấc và tiếng ấy đã phát ra tại thiền phòng của Tang Kim đại lạt ma, hình như là tiếng gắt gỏng của sư tôn. Pháp Đô kinh hoảng hấp tấp vùng ngay dậy, và chạy sang phòng thầy.

Ra khỏi cửa, đi chưa được mấy bước, trong bóng tối, bỗng lù lù xuất hiện một người, khi Pháp Đô nhìn rõ, bất giác toát mồ hôi lạnh. Thì ra chính là sư tôn Tang Kim đại lạt ma, chủ trì Bắc Ưng Lãnh Lạc chỉ thấy vị cao tăng khoác chiếc áo mỏng xông về phía Pháp Đô mỉm cười.

Pháp Đô không thể nào tin được, thầy mình xưa nay sợ lạnh hơn ai hết, thế mà giờ đây lại choàng chiếc áo mỏng tanh trong đêm khuya lạnh thấu xương này, vừa tính cất tiếng hỏi, trước mắt hoa hẳn lên, thầy mình đã biến tích luôn! Pháp Đô lật đật đến ngay thiền phòng đẩy cửa vào, trời ơi! Rõ sư tôn Tang Kim đại lạt ma đang nằm trên thiền sàng! Vậy người vừa rồi quyết không phải thầy mình, rất có thể là hồn hiển linh của thầy mình chăng.

Nghĩ tới đây, Pháp Đô rùng mình ớn lạnh, vội bước nhanh lại lên tiếng:

– Bạch sư phụ!

Nhưng không có tiếng trả lời. Pháp Đô tưởng đâu thầy mình đã qua đời, nhanh tay khám nghiệm, thì ra đã bị người ta dùng lối điểm huyệt nặng, khiến cho hai chân bị tàn phế hẳn. Tang Kim đại sư tuổi cao sức yếu, không sao chịu nổi cơn đau đớn nên đã hôn mê bất tỉnh luôn!

Pháp Đô vừa hoảng vừa giận, vội lo cứu cấp, Tang Kim đại lạt ma sau khi tỉnh dậy, thảm thiết nói với đồ đệ rằng:

– Ma chướng của Thánh tự Bạch Linh đã đến rồi con ơi1

Thì ra tên thần xuất quỉ nhập Tỉ Vương đã không hoạt động tại Trung Nguyên mà nay đã ngang nhiên về Mạc Bắc, nay lại dùng thủ pháp kỳ dị để uy hiếp và thao túng Tang Kim đại lạt ma. Và từ đó Phật quốc trang nghiêm của miền Mạc Bắc này trở thành một đại bản doanh sào huyệt đại ma đầu Tỉ Vương, toàn ban Lạt ma trong Thánh tự đều bị uy hiếp thao túng triệt để, Pháp Đô tính thí mạng liều chết với Tỉ Vương, nhưng vì sức yếu và thế cô, đành phải chịu nhục, sống chết đều dở dang.

Dưới sự sắp xếp của Tỉ Vương, sáng ngày hôm sau, trong Thánh tự tuyên bố Tang Kim đại lạt ma bắt đầu bế quan mười năm sau sẽ dự kỳ đắc đạo chánh quả, bạch nhật phi thăng, và chức chủ trì thánh tự do Pháp Đô thăng nhậm, còn Tang Kim đại lạt ma bị di chuyển ngay xuống mật thất của Thánh kham, từ đó các Lạt ma trong Bách Linh thánh tự, đều trở nên nanh vuốt của Tỉ Vương tàn ác!

Và tất cả những nguyên nhân của đám Lạt ma triệt để làm hài lòng Tỉ Vương ma quân chẳng qua cốt để đánh đổi lại sự giải huyệt của Tỉ Vương đối với thầy Tang Kim đại lạt ma, nhưng đã mười năm trôi qua, họ đã cố nhẫn nại chờ đợi… và gây không biết bao chuyện ác do Tỉ Vương sai khiến, nhưng vẫn không thể nào cầu xin được chút lòng thương hại của Tỉ Vương để giải cứu cho thầy.

Đến nay, kỳ hẹn mười năm đã hết, bè lũ quần ma của Tỉ Vương đã tấp nập đến tế tựu tại mạn Mạn Bắc để chuẩn bị khai đàn lập giáo, các tay sai của Tỉ Vương tuyên bố, ngoài chuyện cúng tế trinh nữ để hiến thần linh ra, sẽ còn mục nhục thân thành Phật của Tang Kim đại lạt ma đắc đạo thăng thiên.

Tin này do Lục y sứ giả âm ty tú tài Trần Thân và Lam y sứ giả Lân vương Cổ Thái Huyền truyền ra, từ Pháp Đô cho đến hết thảy Lạt ma trong thánh tự đều kinh ngạc và tức giận vô cùng. Lúc này mới biết rõ tính tình tàn ác thâm độc của tên Tỉ Vương ma quân này.

Nay trong cơn tuyệt vọng, thầy trò Pháp Đô thà chịu chết bằng cách tự sát hơn là để ác ma Tỉ Vương lợi dụng trong kế hoạch thâm độc của y. Trong khi hai thầy trò ôm nhau tính tự tử ấy, bỗng có tay sai của Tỉ Vương Lục y sứ giả hiện thân ra lạnh lùng cười, cánh cáo hai người chớ hành động dại dột mà mang thêm tai họa.

Lục y sứ giả cho biết là Tỉ Vương đã bố trí sẵn sàng hết, nhất là đã bỏ một thứ thuốc độc ghê gớm vào các giếng nước ăn trong Bách Linh Tự, thứ thuốc độc ấy đã nhiễm hết vào trong các Lạt ma trong Thánh Tự, loại thuốc độc này chỉ có riêng mình Tỉ Vương mới có thể giải cứu. Nếu Tang Kim đại lạt ma không chịu nghe lệnh hy sinh về kế hoạch cho Tỉ Vương, sau ngày đại hội quá mười ngày các tăng lữ Lạt ma trong miếu tự sẽ trúng độc chết thảm khốc.

Sự tàn sát thâm độc của Tỉ Vương quả hết chỗ chê, thoạt tiên dùng tính mạng của Tang Kim đại lạt ma để uy hiếp các tăng lữ, nay lại dùng tính mạng của các tăng lữ để uy hiếp Tang Kim phải hy sinh đúng với kế hoạch của Tỉ Vương.

Tang Kim đại sư quả không hổ danh là vị cao tăng, vì tính mạng các đồng đạo ông ta nghiễm nhiên nhận lời của Tỉ Vương, Lam y sứ giả và Lục y sứ giả nở những nụ cười nham hiểm, tiếp theo là những kế hoạch của Tỉ Vương ngày khai đàn lập giáo ấy chỉ ngại trong số các tay ma đầu có kẻ không chịu phục, sẽ xảy ra rắc rối, nên ngoài sự dùng võ lực trấn át ra, còn thêm ít mục múa rối để che tai mắt thiên hạ, khiến cho những kẻ phó hội phải tin và tuân theo triệt để.

Trong cuộc thịnh lễ sắp khởi sự để hỏa thiêu Tang Kim đại lạt ma thăng thiên ấy, vị chủ trì Thánh Tự phải đọc một bài diễn thuyết đại ý là khuyên các quần hào phải triệt để tuân nghe theo lệnh của Tỉ Vương vì đó là ý Trời đã định cho Tỉ Vương giữ chức minh chủ võ lâm, tuyệt không thể hoài nghi gì nữa.

Trong cơn bị uy hiếp và tuyệt vọng ấy… trời đã không nỡ tuyệt lộ kẻ mắc cạn, trong Bách Linh Tự bỗng lại lóe lên một tia hy vọng của sự sống còn! Đó là sự xuất hiện của thượng Quan Linh thiệt. Khi Pháp Đô chứng kiến sự biến cố của Lãnh Ưng Trang, không ngờ trên thế gian này lại có người thần lực đến như thế, nếu có thể hợp tác với người này để chống Tỉ Vương, may ra có thể xoay chuyển tình thế lại. Sau khi về Bách Linh Tự, Pháp Đô đã ngấm ngầm chú ý đến sự thăm viếng của vị cái thế thần lực kỳ hiệp xuất hiện. Trong khi các thủ hạ và bè lũ của Tỉ Vương tập tụ về Bách Linh Miếu đông đủ, thì chỉ thiếu mặt ba thầy trò lão bà bịt mặt, tên Tỉ Vương đang đội lốt Thượng Quan Linh và đóng vai Thanh y sứ giả ấy lập tức nghi ngờ và hạ lệnh cho điều tra tức khắc. Một cuộc thâu tin đại qui mô bằng lối phi xà truyền lệnh được tung đi khắp trạm.

Pháp Đô cũng ngấm ngầm mạo hiểm cho các tay thủ hạ thân tín của mình đi thu ngay các rắn bay ấy lại, ngoài số tin không quan trọng thì bắt được một tin đặc sắc là thầy trò lão bà bịt mặt, đã bị Hắc y sứ giả Bắc Ưng Lãnh Lạc tiêu diệt, Pháp Đô là người hiểu rõ nội tình, biết trong tứ sứ giả ấy Hắc y sứ giả và Tử y sứ giả chỉ có danh mà không có thật, mà cũng chính là hiện thân của Tỉ Vương. Nay Tỉ Vương đã xuất hiện với danh nghĩa là Thanh y sứ giả, lẽ dĩ nhiên không thể nào đóng thêm vai Hắc y sứ giả để giết thầy trò lão bà bịt mặt. Vậy thì vị Hắc y sứ giả này rất có thể là vị đại hiệp đã trốn khỏi huyệt bí mật tại Lãnh Ưng Trang, Pháp Đô nghe lén những cuộc bàn tán của các tay tâm phúc của Tỉ Vương, và biết người giả lốt Bắc Ưng Lãnh Lạc để đóng vai Hắc y sứ giả ấy là Thượng Quan Linh thiệt, và sớm muộn gì cũng sẽ đến Bách Linh Miếu để cứu thứ nữ Thanh Thông Liễu Mi. Mà kẻ lo canh giữ Liễu Mi lại chính do Pháp Đô, thế là vị Pháp Đô lạt ma này lo sẵn mưu kế của mình, chờ đợi Thượng Quan Linh đến. Và nay, trong ngôi mật thất của Thánh kham, các thủ hạ thân tín của Pháp Đô lo canh ráo riết khắp bên ngoài, bên trong Pháp Đô ân cần tiếp đãi Thượng Quan Linh ăn uống và kể rõ tự sự.

Sau cuộc kể rõ mọi việc, Pháp Đô lạt ma bèn đi ngay vào đề chính là mời Thượng Quan Linh hợp tác cùng với họ, sẽ tương kế tựu kế, vào ngày mồng mười Tết mai đây, trong cuộc đại lễ khai đàn lập giáo, sẽ mở ngay một cuộc đại náo Tỉ Vương ma quân cho hả dạ. Thượng Quan Linh đang rầu về phe mình yếu thế cô sức, Sở Canh về Trung Nguyên cầu viện chưa tới, xa như thế chắc gì đến kịp, nay may mắn được nhóm Pháp Đô hợp tác, còn gì mừng cho bằng, chàng lập tức nhận lời ngay. Gần đến giờ ngọ, bỗng nghe có tiếng ám hiệu vang lên, thì ra ám hiệu của thủ hạ Pháp Đô, cho biết có người đang đến.

Pháp Đô vội kéo ngay Thượng Quan Linh trốn vào một phòng khác, quả trong nháy mắt Lam y sứ giả Lân vương Cổ Thái Huyền đi tuần đến, Pháp Đô cung kính nghênh đón, sau khi thấy không có gì lạ xảy ra, bèn căn dặn Pháp Đô và Tang Kim, mai đây ngày tối quan trọng, tất cá đều chiếu theo hoạch định mà thi hành, cấm chểnh mảng xao lãng, Pháp Đô cung kính vâng dạ liên hồi và tiễn đưa Cổ Thái Huyền ra ngoài, xong xuôi lại cẩn thận cho người canh gác, hấp tấp vào thương lượng với Thượng Quan Linh để tìm cách đối phó. Một ngày êm tĩnh trôi qua, không khí bên ngoài càng hiền hòa thì trái lại bên trong càng khẩn trương tột độ, một cuộc u ám đang phủ khắp mọi lòng người có liên quan đến cuộc thịnh hội của Bách Linh Thần tự mai đây.

Về phần ba vị tiền bối Thiên Si, Nam Bút, Đông Tăng, tự biết sức Tỉ Vương, nên sau khi thoát khỏi thạch thất, tìm cách ẩn tích ngay, mắt thấy quần hào đang mở cuộc lùng soát, ba người kinh hoảng. Tỉ Vương, Lục y sứ giả, Lam y sứ giả không hề tham gia một cuộc lùng soát! Mà chỉ ra lệnh cho Dực Đông Biện Trang Hổ ngấm ngầm quan sát động tĩnh của Bắc kiếm Phổ Côn.

Bắc kiếm Phổ Côn, dù sao cũng còn tình nghĩa hương hỏa với ba vị sư đệ, nếu không có Ngũ đại sứ giả thân hành ra đốc trận, Bắc Kiếm cũng mở cuộc điều tra cho lấy lệ, nhưng nào hay lại có Biện Trang Hổ theo sát nách giám thị mình, phải đành cúi đầu làm đúng nguyên tắc. Nhưng trong ngấm ngầm khấn vái cho ba sư đệ liệu khôn ngoan mà rời khỏi ngay nơi đất thị phi này. Tỉ Vương và các tay sai đắc lực sao không tiến hành cuộc lùng soát? Chỉ vì tại ba thầy trò lão bà bịt mặt vẫn chưa thấy tới, mà tin của phi xà đem về toàn là tin không đáng kể. Tỉ Vương đã ra lệnh cho Lam và Lục hai sứ giả lo tiến hành riêng về vụ này. Nhưng mặt khác, Biện Trang Hổ đã chứng thực sự xuất hiện của Hắc y sứ giả và đã ngang nhiên cứu thoát ba nhân vật của nhóm Càn Khôn Ngũ Tuyệt là Tây Đạo, Đông Tăng và Nam Bút, vụ này quá quan trọng, hai sứ giả Lục và Lam cấp tốc lo thúc lãnh thủ hạ, cẩn thận mở cuộc lùng bắt. May Thượng Quan Linh và Pháp Đô hai bên đã hợp tác với nhau và đương ẩn thân một nơi an toàn nhất của Bách Linh Tự.

Kết quả cuộc lùng soát, ba nhân vật Càn Khôn và Hắc y sứ giả vẫn bặt vô âm tín, một đêm căng thẳng lẳng lặng trôi qua!

Sáng mồng mười Tết, mọi việc đã sẵn sàng. Thoạt tiên, đại thành Bách Linh Miếu, tiếng pháo nổ rền tai mọi người, báo trước cuộc thịnh lễ sắp khởi hành. Tiếp đến, tiếng trống tiếng chuông đổ rền, cổng miếu tự mở toang hết một lượt, các tăng lữ Lạt ma, tay bê pháp khí xếp hàng thủng thỉnh đi theo thứ tự và xếp theo hàng lối đã định trước trong đại điện âm u hùng tráng. Thanh y sứ giả với bộ áo lộng lẫy cùng với Lam y sứ giả và Lục y sứ giả xuất hiện cùng một lượt để chủ trì cuộc lễ, nghi thức tôn giáo bắt đầu. Trong đại điện lúc này, ngoại trừ tăng lữ Lạt ma ra, còn phần đông đều là thủ hạ của Tỉ Vương, cùng với các phái anh hào, và các thân hào nhân sĩ địa phương, đông đảo có trên trăm người, ai nấy im lặng như tờ.

Bên ngoài điện, toàn dân thập phương đến xem lễ đầu người lô nhô chen chúc, ai nấy lúc này ngóng dài cổ ra để xem các cuộc thịnh lễ ngoạn mục sắp diễn.

Chủ trì của Thánh Tự là Pháp Đô lạt ma, cất tiếng sang sảng tuyên bố, tất cả các cuộc thịnh hội hôm nay là do Thanh y sứ giả Thượng Quan đại hiệp đứng ra thay mặt chúa công để chủ trì buổi lễ. Dưới sự phò trợ của hai sứ giả Lam và Lục, Thanh y sứ giả ung dung tiến bước lên tế đàn, lưng quay về phía thần tượng, mặt hướng về mọi quan khách, áo quần lộng lẫy, kiếm dắt bên mình trông oai nghi lẫm liệt và anh tuấn lạ! Ngôi đại điện đây âm u lạnh lùng, lúc này Thanh y sứ giả đứng hiên ngang trên đàn, cất giọng tuyên bố bắt đầu thịnh lễ, nhưng vì muốn cho dân chúng thập phương bên ngoài điện được chiêm ngưỡng cuộc thịnh lễ, ngôi nóc đại điện và bức tường nên gỡ ngay cho mọi người được thấy.

Sau câu tuyên bố nảy lửa của Thanh y sứ giả quần hào nhao nhao bàn tán xì xầm, dẫu cho là công lực tuyệt cao của ba sứ giả Thanh y, Lam y, Lục y lợi hại đến đâu đi nữa nhưng muốn trong một thời gian ngắn ngủi này mà dời hết nóc đại diện và bức tường đồ sộ kia, đâu phải là chuyện bỡn.

Trên lễ đàn, Thanh y sứ giả chỉ mỉm cười. Thình lình! Thanh y sứ giả song chưởng giơ ra phạt ngay một chưởng lên không “ào” một tiếng, tất cả các đôi mắt trong điện lúc này, chỉ thấy nóc nhà đại điện bị bay mất một mảng lối năm thước tư vuông!