Chương 07 phần 1

Đại chiến hacker

Đăng vào: 11 tháng trước

.

Họ kéo tôi ra ngoài và đi tới góc phố, nơi một chiếc xe cảnh sát không gắn phù hiệu đang đợi sẵn. Dù sao thì nhiều người ở trong khu vực này có thể nhận ngay ra đó là một xe cảnh sát. Chỉ có cảnh sát mới lái những chiếc Crown Victoria khổng lồ vào lúc này, khi mà giá xăng đã tăng đến bảy đô một galông. Thêm nữa, chỉ có cảnh sát mới có thể đỗ xe cạnh một xe khác giữa phố Van Ness mà không bị bầy xe kéo hung tợn vây kín và luôn sẵn sàng bắt bạn tuân thủ luật đỗ xe không thể hiểu nổi của San Francisco, hòng kiếm được chút tiền thưởng vì đã bắt được xe bạn.

Gỉ Mũi hỉ mũi. Tôi đang ngồi ở ghế sau và anh ta cũng vậy. Đồng nghiệp của anh ta ngồi ghế trước, nhịp ngón tay lên một chiếc laptop xù xì, cổ kính, trông như thể chủ nhân thực sự của nó phải là Fred Flintstone(22) từ thời Đồ Đá vậy.

(22) Nhân vật trong series hoạt hình The Flintstones – Gia Đình Flintstones.

Gỉ Mũi xem xét kỹ chứng minh thư của tôi một lần nữa. “Chúng tôi chỉ muốn hỏi cậu vài câu hỏi theo thủ tục.”

“Tôi có thể xem phù hiệu cảnh sát của anh được không?” tôi hỏi. Những gã này rõ ràng là cảnh sát, nhưng cũng chẳng hại ai nếu tôi cho họ thấy tôi cũng am hiểu quyền của mình.

Gỉ Mũi giơ cái phù hiệu trước mặt tôi nhanh đến mức tôi chưa kịp nhìn gì, nhưng Zit, người ngồi ghế trước lại cho tôi nhìn kỹ phù hiệu của anh ta. Tôi có số hiệu khu vực của họ và nhớ bốn con số trên phù hiệu. Rất đơn giản: 1337 cũng là cách mà các hacker viết từ “leet”(23) hoặc “elite”(24).

Cả hai đều rất lịch sự và không ai tỏ ý đe dọa tôi như cái cách mà Cục An ninh Nội địa đã làm khi bắt giữ tôi.

(23) Cách viết khác của từ“elite” theo bảng chữ cái thay thế trong tiếng Anh thường được dùng trên Internet.

(24) Thành phần tinh túy.

“Tôi có bị bắt giữ không?”

“Cậu bị tạm giữ một lúc để chúng tôi có thể đảm bảo sự an toàn của cậu và của cả cộng đồng,” Gỉ Mũi đáp.

Anh ta đưa giấy phép lái xe của tôi cho Zit, Zit chậm chạp mổ cò nhập dữ liệu của nó vào máy tính. Tôi thấy anh ta gõ nhầm chữ và suýt nữa đã chỉnh lại, nhưng rồi tôi hiểu rằng tốt hơn hết là nên im mồm.

“Có gì mà cậu muốn nói với tôi không, Marcus? Mọi người có gọi cậu là Marc”

“Marcus được rồi,” tôi nói. Gỉ Mũi trông có vẻ là người tốt. Tất nhiên trừ việc anh ta vừa bắt cóc tôi vào trong xe.

“Marcus. Cậu có muốn kể gì cho tôi không?”

“Kể gì cơ? Tôi đang bị bắt giữ à?”

“Hiện tại cậu không bị bắt giữ,” Gỉ Mũi nói. “Cậu muốn thế sao?”

“Không,” tôi đáp.

“Tốt. Chúng tôi đã theo dõi cậu từ khi cậu rời khỏi BART. Thẻ đi tàu của cậu thông báo rằng cậu đã đến rất nhiều nơi kỳ lạ vào những thời điểm khác nhau.”

Tôi nhẹ cả người. Việc này không liên quan gì tới Xnet cả, không hẳn là vậy. Họ đã giám sát việc sử dụng tàu điện ngầm của tôi và chỉ muốn biết tại sao gần đây nó lại kỳ quặc như vậy. Thật là ngu ngốc.

“Vậy là các anh theo dõi bất cứ ai ra khỏi ga BART mà có lịch trình đi lại buồn cười à? Hẳn các anh phải bận rộn lắm nhỉ.”

“Không phải tất cả mọi người, Marcus. Chúng tôi được báo động khi có ai đó với hồ sơ di chuyển bất thường đi ra, điều đó giúp chúng tôi đánh giá xem có nên tra hỏi hay không. Trong trường hợp của cậu, chúng tôi tiếp cận cậu vì muốn biết tại sao một anh chàng sáng sủa thông minh như cậu mà lại có hồ sơ di chuyển buồn cười như vậy?”

Giờ đây, khi biết mình sẽ không phải vào tù, tôi cảm thấy bực bội. Những gã này không có quyền theo dõi tôi – Chúa ơi, BART không có quyền giúp họ theo dõi tôi. Điểm dừng quái quỷ nào đã tố giác tôi “di chuyển không đúng chuẩn mực” vậy?

“Tôi nghĩ là tôi muốn bị bắt giữ bây giờ,” tôi nói.

Gỉ Mũi ngồi xuống và nhướn mày nhìn tôi.

“Thật à? Vì tội gì?

“Ồ, vậy ý anh là việc di chuyển bằng phương tiện công cộng không theo lịch trình thông thường không phải là một tội ác à?”

Zit nhắm mắt lại và dụi mắt bằng ngón tay cái. Gỉ Mũi thở dài một tiếng đầy dụng ý. “Nghe này, Marcus, ở đây chúng tôi đứng về phía cậu. Chúng tôi sử dụng hệ thống này để bắt giữ những kẻ xấu. Bọn khủng bố và buôn ma túy. Có thể chính cậu là một tay buôn ma túy. Thật thông minh khi đi quanh thành phố, bằng hệ thống tàu nhanh. Vô danh.”

“Vô danh thì sao? Thomas Jefferson(25) sẽ thấy chẳng sao. Mà rốt cuộc tôi có đang bị bắt giữ không?”

“Đưa cậu ta về nhà đi,” Zit nói. “Chúng ta có thể nói chuyện với bố mẹ cậu ta.”

“Tôi cho đó là một ý rất hay,” tôi nói. “Tôi chắc là bố mẹ tôi sẽ rất tức giận khi biết tiền thuế hàng tháng của họ đã được sử dụng như thế nào…”

(25) Tổng thống thứ ba của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, một trong những người theo chủ nghĩa tự do nhiệt thành nhất thời cận đại.

Tôi đã đưa mọi chuyện đi quá xa. Gỉ Mũi đã với lấy tay nắm cửa nhưng giờ thì gã phát điên với tôi, mặt gã tái xanh và tĩnh mạch phập phồng. “Sao mày không câm mồm ngay bây giờ trong khi mày vẫn được quyền lựa chọn? Sau tất cả những gì đã xảy ra suốt hai tuần vừa rồi, mày thiệt cái gì nếu chịu hợp tác với bọn tao? Mày biết không, có lẽ bọn tao nên bắt giữ mày. Mày có thể ở một đến hai ngày trong tù trong khi luật sư của mày tìm tới. Rất nhiều việc có thể xảy ra trong thời gian đó. Rất nhiều. Mày thích thế phải không?”

Tôi không nói gì. Trước đó tôi choáng váng và tức giận. Giờ thì tôi sợ đến đần người.

“Tôi xin lỗi,” tôi kiềm chế, nói xong lại thấy căm ghét bản thân.

Gỉ Mũi ngồi lên ghế trước và Zit khởi động máy, phóng lên phố 24 và vượt qua đồi Potrero. Họ đã có địa chỉ của tôi từ chứng minh thư.

Mẹ tôi ra mở cửa sau khi họ rung chuông, bà mở hé cửa và vẫn để khóa xích bên trong. Bà nhìn thấy tôi và hỏi, “Marcus? Những người này là ai?

“Cảnh sát,” Gỉ Mũi nói. Gã đưa phù hiệu cho mẹ tôi xem thật kỹ – không giằng ngay lại như khi cho tôi xem. “Chúng tôi có thể vào được chứ?”

Mẹ tôi đóng cửa lại, mở khóa xích ra và cho họ vào. Họ đưa tôi vào và bà nhìn cả ba bằng ánh mắt rất đặc trưng của mình.

“Chuyện này là sao?”

Gỉ Mũi chỉ vào tôi. “Chúng tôi muốn hỏi con trai bà vài câu hỏi theo thông lệ về việc di chuyển của cậu ấy, nhưng cậu ấy từ chối trả lời. Chúng tôi cảm thấy có lẽ tốt nhất là đưa cậu ấy về đây.”

“Nó có bị bắt không?” giọng mẹ tôi trở nên mạnh mẽ hơn. Mẹ tôi thật tuyệt.

“Thưa bà, bà có phải là công dân Hoa Kỳ không?” Zit hỏi.

Mẹ tôi ném cho gã một ánh mắt lạnh lẽo. “Tôi chắc chắn là công dân Mỹ,” bà trả lời bằng giọng miền Nam đặc sệt. “Tôi có bị bắt không?”

Hai gã cảnh sát nhìn nhau.

Zit nói trước. “Có vẻ như chúng ta đã bắt đầu không được hay ho cho lắm. Chúng tôi xác định được việc di chuyển bằng phương tiện công cộng của con trai bà khá bất thường, đây là một phần chương trình tăng cường bảo vệ mới. Khi chúng tôi phát hiện ra những người có quá trình di chuyển bất thường, hoặc khớp với hồ sơ khả nghi nào đó, chúng tôi sẽ điều tra kỹ hơn.”

“Đợi đã,” mẹ tôi nói. “Làm thế nào mà các anh biết con trai tôi sử dụng phương tiện công cộng?”

“Thẻ đi tàu,” gã đáp. “Nó ghi lại các chuyến đi.”

“Tôi hiểu rồi,” mẹ tôi khoanh tay lại. Hành động khoanh tay lại của bà là một dấu hiệu xấu. Việc bà không thèm mời họ uống một tách trà cũng đã đủ tệ rồi – trong lãnh địa của mẹ tôi, điều đó cũng gần giống như việc bắt khách phải nói chuyện qua khe bỏ thư mà không mở cửa cho vào nhà – nhưng một khi bà khoanh tay lại, còn tồi tệ nữa. Lúc ấy, tôi thật muốn chạy đi mua tặng mẹ một bó hoa to.

“Marcus đã từ chối nói cho chúng tôi biết tại sao cậu ấy lại di chuyển như vậy.”

“Ý các anh là các anh nghĩ con trai tôi là một tên khủng bố vì cách nó đi xe buýt à?”

“Chúng tôi không chỉ bắt những kẻ khủng bố theo cách này,” Zit nói. “Những tay buôn ma túy. Các băng nhóm thanh thiếu niên. Thậm chí cả bọn ăn cắp vặt cũng đủ thông minh để mỗi lần dừng lại ở một khu vực khác nhau.”

“Các anh nghĩ con trai tôi buôn bán ma túy?”

“Chúng tôi không nói như vậy…” Zit mở miệng.

Mẹ tôi vỗ tay về phía gã để bắt gã im.

“Marcus, con đưa ba lô của con cho mẹ.”

Tôi làm theo.

Mẹ tôi kéo khóa ra và xem xét bên trong, quay lưng lại với chúng tôi.

“Thưa ngài, giờ tôi có thể xác nhận rằng không có ma túy, chất gây nổ hay những đồ lặt vặt ăn cắp từ các cửa hàng trong túi con trai tôi. Tôi nghĩ chúng ta đã xong việc ở đây. Vui lòng cho tôi xin số hiệu phù hiệu cảnh sát của các anh trước khi các anh đi.”

Gỉ Mũi nhếch mép với bà. “Thưa bà, Hiệp hội Quyền Tự do Dân sự Mỹ đang kiện ba trăm cảnh sát của Sở Cảnh sát San Francisco, bà sẽ phải xếp hàng đấy.”

Mẹ pha cho tôi một tách trà rồi mắng tôi một trận vì ăn tối ở ngoài dù đã biết bà sẽ làm món viên đậu xanh rán ở nhà. Bố tôi về nhà khi hai mẹ con vẫn đang ngồi ở bàn, rồi mẹ và tôi lần lượt kể cho ông nghe chuyện đã xảy ra. Ông lắc đầu.

“Lilian, họ chỉ đang làm công việc của mình thôi.” Ông vẫn mặc áo cộc tay màu xanh và bộ đồ kaki mà ông đã mặc hồi còn làm tư vấn viên ở thung lũng Silicon. “Thế giới không còn như tuần trước nữa.”

Mẹ tôi đặt tách trà xuống. “Drew, anh thật là buồn cười. Con trai anh đâu phải là một kẻ khủng bố. Việc nó sử dụng phương tiện giao thông công cộng ra sao không phải là lý do để cảnh sát điều tra.”

Bố tôi cởi áo ra. “Bọn anh thường xuyên làm như vậy ở chỗ làm. Máy tính được sử dụng theo cách ấy để tìm thấy lỗi sai, sự dị thường và các kết quả đầu ra khác. Người ta yêu cầu máy tính tạo ra một hồ sơ bao gồm các số liệu trung bình trong kho dữ liệu, sau đó tìm ra những số liệu nào trong kho dữ liệu chênh lệch nhiều nhất so với mức trung bình. Nó là một phần của thứ gọi là phân tích Bayes và đã có từ hàng mấy thế kỷ nay rồi. Không có nó, chúng ta không thể lọc được thư rác…”

“Vậy ý bố là bố nghĩ cảnh sát nên kiểm soát chặt chẽ như bộ phận lọc thư rác của con à?” tôi nói.

Bố chưa bao giờ tức giận vì việc tôi tranh cãi với ông, nhưng tối nay tôi có thể thấy ông căng thẳng tột độ. Dù sao, tôi không thể nhịn được. Bố của tôi mà lại đứng về phía cảnh sát!

“Ý bố là hoàn toàn hợp lý khi cảnh sát bắt đầu công việc điều tra của mình bằng việc khai thác dữ liệu, sau đó thực hiện công việc chân tay ở công đoạn cần đến sự can thiệp của con người để xác định xem tại sao lại tồn tại sự bất thường này. Bố không nghĩ rằng máy tính có thể chỉ cho cảnh sát là họ nên bắt giữ ai, chúng chỉ nên giúp họ phân loại đống cỏ khô để tìm ra cây kim thôi.”

“Nhưng bằng cách khai thác tất cả các dữ liệu từ hệ thống chuyên chở, họ đang tạo ra một đống cỏ khô,” tôi nói. “Nó là một núi dữ liệu khổng lồ và nhìn từ quan điểm của cảnh sát thì dường như không có gì đáng tìm trong đó. Hoàn toàn lãng phí.”

“Bố hiểu rằng con không thích việc hệ thống này gây ra cho con một chút bất tiện, Marcus. Nhưng tất cả mọi người nên coi trọng mức độ nghiêm túc của tình hình. Không hại đến ai, phải không? Thậm chí họ còn đưa con về nhà còn gì.”

Họ đã dọa sẽ tống con vào tù, tôi nghĩ, nhưng tôi có thể thấy rằng nói điều này ra cũng chả ích gì.

“Hơn nữa, con vẫn chưa nói cho chúng ta con đã đi những chỗ quái quỷ nào để đến nỗi tạo nên cả một lịch trình di chuyển bất thường như thế.”

Câu này chợt khiến tôi chột dạ.

“Con cứ nghĩ bố tin tưởng vào sự đánh giá của con, rằng bố không muốn theo dõi con.” Ông vẫn thường nói vậy. “Bố có thực sự muốn con giải trình tất cả từng chặng đường mà con đã đi không?”

Tôi cắm Xbox của mình ngay khi vừa lên đến phòng. Tôi bắt vít máy chiếu lên trần nhà để nó có thể chiếu lên bức tường phía đầu giường (tôi đã phải gỡ mấy tấm poster rock punk đẹp tuyệt vời, các đầu nối điện thoại và dán lên đó những tờ giấy trắng lớn).

Tôi bật Xbox và nhìn màn hình từ từ hiện lên. Tôi định e-mail cho Van và Jolu để kể cho họ nghe về rắc rối với cảnh sát, nhưng vừa đặt tay xuống bàn phím thì đột nhiên tôi ngừng lại.

Một cảm giác râm ran thoáng qua, giống như khi tôi nhận ra họ đã biến cái Salmagundi già nua tội nghiệp thành kẻ phản bội vậy. Lần này, tôi có cảm giác Xnet yêu quý của tôi có thể đang phát thông tin về địa điểm của từng người sử dụng cho DHS.

Chính bố đã nói: Người ta yêu cầu máy tính tạo ra một hồ sơ bao gồm các số liệu trung bình trong kho dữ liệu, sau đó tìm ra những số liệu trong kho dữ liệu chênh lệch nhiều nhất so với mức trung bình.

Xnet được bảo mật vì người sử dụng không kết nối trực tiếp vào Internet. Họ nhảy từ Xbox này sang Xbox khác cho đến khi tìm thấy một máy đã kết nối Internet, rồi họ cài các tài liệu của mình vào dưới dạng dữ liệu được mã hóa không thể giải. Không ai biết được gói thông tin Internet nào là của Xnet, gói nào chỉ là những thông tin trao đổi được mã hóa của các ngân hàng và các dịch vụ thương mại điện tử. Bạn còn không thể phát hiện ra ai đang gõ phím trên Xnet chứ đừng nói tới ai đang sử dụng Xnet.

Nhưng thế còn “những con số thống kê Bayes” của bố tôi thì sao? Trước đây tôi đã nghịch vài trò với thuật toán Bayes. Có lần Darryl và tôi đã thử tự viết một chương trình lọc thư rác tốt hơn và khi bạn lọc thư rác, bạn cần đến thuật toán của Bayes. Thomas Bayes là một nhà toán học người Anh sống ở thế kỷ mười tám và không ai quan tâm đến ông cho đến vài trăm năm sau khi ông mất, khi các máy tính nhận ra rằng những kỹ thuật phân tích thống kê của ông cho hàng núi dữ liệu cực kỳ hữu ích đối với khối lượng thông tin cao như núi Himalaya của thế giới hiện đại.

Thuật toán thống kê Bayes hoạt động như sau: Giả sử bạn có hàng đống thư rác (spam). Bạn xem từng từ trong thư rác đó và đếm số lần xuất hiện của nó. Đây gọi là “biểu đồ tần suất của từ ngữ” và nó cho bạn biết xác suất mà một cụm từ bất kỳ có khả năng là thư rác. Giờ thì hãy xem một đống e-mail không phải thư rác – trong nghề, người ta gọi nó là các tập “ham” và cũng làm tương tự.

Khi một e-mail mới đến, hãy đếm các từ xuất hiện trong đó. Tiếp theo, áp dụng biểu đồ tần suất các từ cho e-mail này để tính toán xác suất nó thuộc vào tập “spam” hay tập “ham”. Nếu nó là thư rác, bạn sẽ theo đó mà điều chỉnh lại biểu đồ “spam”. Có rất nhiều cách để cải tiến kỹ thuật này – xem xét từng cặp từ, bỏ các dữ liệu cũ đi – nhưng đây là cách hoạt động cốt lõi của nó. Nó là một trong những ý tưởng đơn giản nhưng rất tuyệt vời mà ngay sau khi nghe giải thích, bạn có thể hiểu được ngay.