Chương 10: "Bàn tay danh vọng"

Con Quỷ Truyền Kiếp

Đăng vào: 11 tháng trước

.

Mấy người đi tới khu lâu đài Dannow thì sương mù đã tan hết. Lá leo trùm phủ khắp nơi như một bức khăn liệm u buồn. Từ những ống cao trên mái lầu, khói lò sưởi đưa lên uốn éo vòng vèo dưới bầu trời nhạt sắc. Hào nước men chân bốn phía tường vây, mọc lên đầy rẫy những cỏ cằn.

Trước khi qua cầu treo, Swanhild đỗ xe lại. Oliver chỉ tay một khóm thông cao đứng che khuất một phần lâu đài và bảo Luna:

– Cái phòng bí mật ở ngay sau rặng thông kia đấy. Nếu trời không ẩm lạnh tôi sẽ đưa cô xuống xem và cô sẽ thấy cái cửa sổ có song sắt.

– Thế ra đứng ngoài cũng xem xét được căn phòng ư?

– Không. Vì tường dầy những hơn một thước, mặt tường ngoài cũng như mặt tường trong đều đục một khoảng để làm cửa sổ, nhưng không đục xuyên thẳng: khoảng khung cửa sổ phía trong không đối diện với khung bên ngoài nhưng chếch hẳn nhau. Cả những khi trong phòng thắp đèn, bên ngoài chỉ trông thấy được một tia sáng thôi.

Lúc đó trong phòng Holbein, lão Walton đã dọn sẵn mấy món điểm tâm và đốt sẵn lò sưởi; mọi người quây quần quanh lửa ấm trong lúc người lão bộc đi lấy chìa khóa để rồi sẽ mở những nơi cần vào thăm. Oliver xem qua các món ăn và cười:

– Mụ nấu bếp với người lão bộc nhà này thực là những vị phúc tinh! Những món này chính là những món ăn tôi thèm hôm nay đây! Từ lúc tôi thức dậy đến giờ, các bác ấy sao mà cố công săn sóc đến tôi một cách dễ chịu đến thế? Có lẽ họ sợ rằng tôi trốn mất để đi thắt cổ tự tử ở đâu chăng?

Swanhild trách:

– Khiếp! Anh Oliver! Anh chỉ nói dại!

– Chứ không ư? Mà cả đến cả cô nữa, miss Bartendale ạ! Tôi thấy cô cứ chốc chốc lại để mắt coi chừng tôi một lúc lâu.

– Cái đó có gì là lạ? Thế ông chẳng đã bảo tôi rằng ông với tôi trước kia đã từng gặp nhau đấy sao? Tôi có ý nhìn ông để cố nhớ xem gặp về dịp nào. Mà kìa, chìa khóa đây rồi!

Họ cùng nhau đi vào nơi cổ nhất của lớp dinh thự; mấy con chó thong thả đi theo sau. Goddard soi đường. Oliver vì hai tay không cử động được dễ dàng nên để phần cho Swanhild việc mở các cửa.

Đi hết một đường hành lang, nàng vặn một thứ khóa ổ riêng, rồi đến một chiếc khóa móc giữa then cánh cửa sắt. Cửa mở, hơi thấp lạnh ở trong ùa đến tận mặt họ. Vì dù là giữa mùa nực, cả một phần lớp dinh cơ này vẫn giá ngắt cùng với những đường khúc khuỷu, những bức tường ẩm sũng: những rầm gỗ mốc thuếch, những mặt vách chốc lở, những cửa sổ chằng mạng nhện và những đường bậc lung lay.

Tới một lối hẹp lát đá, Luna nghe ngóng và nói:

– Ô này! Ở đây có tiếng nước chảy.

Một cánh cửa sắt nữa quay trên trục han rĩ. Tiếng róc rách nghe rõ hơn lên. Dưới bước cửa, trong một hỏm tối mò, ánh đèn của Goddard chiếu tới một làn phẳng đen sì và lay động.

Oliver giảng giải:

– Đây là chỗ trữ nước để tháo ra các hào. Goddard, lại đây! Đến chỗ rẽ tay phải rồi.

Trong một góc có một cánh cửa lẩn vào giữa bề tường dầy. Oliver bảo mọi người:

– Phải cẩn thận đấy. Không khéo chỗ này có phiến đá long cũng nên.

Goddard dẫn đầu, bước xuống những bậc gỗ sến ghép rất xấu. Luna vừa toan bước theo, hốt nhiên rùng mình lùi lại, mặt tái mét, mắt mở trừng trừng. Goddard lo sợ hỏi:

– Kìa, cô làm sao thế?

Cô thấp giọng đáp:

– Có cái gì dưới ấy chứ chẳng không.

Swanhild tiến đến cạnh Luna, nhưng đôi mắt rèm tơ vàng của nàng yên lặng Luna chăm chú nhìn con chó Roska nó nhìn lại nàng ra chiều đồng ý. Con Alex thì không hiểu biết gì. Oliver vừa nói được nửa chừng câu:

– Giá cô đừng nên…

Nhưng cô đã bước xuống. Chàng đành phải xuống theo và sẵn sàng cái cánh tay không bị thương của mình để chống với những việc có thể bất kỳ xảy tới.

Một lát sau, mọi người đều đã vào cả trong căn phòng bí mật. Luna đứng bên cạnh cái bàn gỗ sến ở giữa phòng, nói:

– Trong này vẫn còn một sức ác hại làm chủ. Song ngay bây giờ thì nó chưa làm hại được ta. Đó là một việc ở ngoài sự thường, nhưng không phải là một sự phi thường với cái đại danh quan trọng của nó, không phải là cái phi thường viết bằng chữ hoa.

Swanhild hỏi ngay:

– Thế có thuộc vào cái thế giới u linh “chiều thứ năm” kia không?

– Quyết là không! Nếu phải thì hai con chó kia đã cảm được thấy. Vậy mà chúng nó vẫn đứng yên có tỏ ra vẻ gì khác đâu?

– Thì con Holder ở trong rừng cũng vậy, tôi không thấy nó báo trước sự gì.

Luna Bartendale lẳng lặng cầm lấy chiếc đèn đi xem xét khắp phòng. Goddard theo sau cô để có xảy ra việc nguy hại gì thì đã có anh đấy.

Phòng này là một công trình xây dựng rất vững chắc. Tường và mặt đất toàn bằng những phiến đá lớn. Từng súc gỗ sến khỏe mạnh nâng đỡ lấy mặt trần ghép bằng những phiến đá nhỏ hơn. Có hai lò sưởi thắp dầu hỏa, lơ láo trong nơi cổ kính này, người ta mới vỡ lẽ ra rằng căn phòng tuy ở gần những hào nước mà vẫn là nơi ít ẩm thấp hơn cả mọi nơi khác trong tòa lâu đài. Duy bức tường đối diện vơi bậc thang xuống phòng là để hiện ra mấy khoảng mốc rêu quanh những cánh cửa sổ. Goddard mở những cửa ấy ra: một hơi gió lạnh đưa vào trùm quấn lấy mọi người. Họ nhìn qua cái khung bưng chấn song sắt, chỉ thấy được những hình đá đen sì vì trải qua bao năm tháng và hỗn độn một khóm thông in hình trên nền trời sáng mờ.

Mặt trần cũng như khoảng trên, bốn mặt tường đều có khói ám đen, có lẽ là do một cái bếp lò bằng gạch xây ở giữa khoảng chỗ bậc thang và cửa sổ. Trên cái bàn giữa phòng, bốn pho sách lớn, đóng bìa da và hơi lỗ chỗ ẩm mốc, đặt nằm cạnh chừng hơn một chục bình và bát bằng đất nung. Trước mặt cái bếp lò, sắp hàng những phẫu lửa hắt vàng khè và một mẻ lọ phủ đầy bụi và chằng chịt mạng nhện. Trong một góc phòng, chồng chất những miếng đá xám và đá hoa.

Luna lấy chiếc cành cây ra và hỏi:

– Có phải chỉ có độc một phòng này là làm trong bề dầy của bức tường không?

Swanhild đáp:

– Có lẽ. Vì không còn chỗ tường nào khác là nghe có tiếng rỗng kêu trong. Chúng tôi đã dò xét mặt vách khắp nhà mà không thấy gì.

Luna:

– Bọn quân lính có lẽ đã phá hủy mất cái cốt yếu, nhưng vẫn còn lại một vài cái hay. Phiến đá vỡ kia là thế nào?

– Chính là phiến đá khắc cái bài hát mà tôi nói chuyện với cô đấy. Chắc là vì người ta nậy ra khỏi tường nên mới vỡ ra như thế, mà nậy ra chắc hẳn họ mong tìm được chìa khóa sự bí mật tưởng giấu ở trong. Chỗ tường lõm kia là chỗ đặt phiến đá đấy.

Luna úp hai tay lại giữ cho cành cây lung lẳng ở giữa rồi đi vòng quanh phòng. Cành cây cất lên hay hạ xuống tùy theo lúc cô đi gần tới hay xa dần cái bếp lò. Cô dừng chân lại cạnh lò xem thì cành cây cô giơ ra phía trên lò nhè nhẹ quay mình. Luna lẩm nhẩm nói:

– Kỳ dị lắm. Song những dấu hiệu này còn mơ hồ lắm, mà cũng chưa đủ.

Cô lật ngửa những cái hũ úp và đặt chân lần lượt trên từng cái một. Cành cây chợt nhiên ngóc thẳng lên ở trên một cái hũ lớn bụi bám đen két trên vung. Swanhild nhấc cái hũ lên xe nhờ Goddard đến đỡ lấy hộ. Lau cho sạch bụi rồi chàng thò tay vào sờ xem trong đựng vật gì. Chàng nói với miss Bartendale:

– Một khối gì đóng rắn lại y như là cát với muối vậy.

Oliver đưa cho bạn một miếng đá và bảo:

– Anh hãy đập cái hũ này ra xem nào.

Tức thì cái hũ biến thành một đống mảnh vụn lẫn với sạn cát và những hòn muối đóng vừng. Goddard gật đầu:

– Cát với muối thực.

Cành cây rung động khi mũi giầy Luna đặt lên cái chất luyện lạ lùng ấy. Cô giảng giải:

– Chắc hẳn trong nầy còn có gì khác nữa kia. Chốc nữa tôi hãy xem lại.

Cô đến bức tường thứ ba: cành cây liền ngoáy tíu tít. Luna thở gấp và đưa ngón tay nhẹ lần từ trên xuống dưới mặt tường. Khi tay cô đưa cao lên thì cành cây cử động rõ thêm; khi tay cô đưa lên cao nữa cho đến hết tầm thì lại thấy nó dịu dần. Nhưng lúc hạ xuống ngang tầm vai, nhịp lay động gấp lên rồi bỗng nhiên cành cây tuột khỏi tay cô, rơi xuống đất. Tiếng rơi động ấy khiến mọi người nhận thức bầu im lặng bao bọc lấy cái quang cảnh diễn ra vừa rồi.

Cô quay lại phía các người đi theo, đưa tay vuốt trán mình và nhìn họ bằng đôi mắt sợ hãi. Cô trỏ một phiến đá tường mà nói, giọng quả quyết:

– Chìa khóa sự bí mật chính ở đây đấy. Mà gớm ghiếc lắm, kinh tởm lắm kia đó!

Goddard đập tay lên mặt đá nói:

– Nhưng bức tường này đặc kia mà?

– Tôi đã nói thế nào là quả quyết tin như thế đó!

Mặt cô xanh tái đi, miệng mím lại, lộ ra một sự dụng công phi thường của trí não. Cô đứng lại một lát gần cửa sổ rồi vừa sửa gọn lại mớ tóc uốn vừa bước lại gần mấy người: nét mặt đã tìm về được vẻ bình tĩnh. Cô bảo họ:

– Tôi theo học khoa học này đến nay đã có mười ba năm trời rồi, mà lần này mới là lần thứ ba tôi thấy cách báo hiệu giống như thế. Tôi dám nói quyết rằng tuy bề ngoài không có vẻ gì nhưng phiến đá kia giấu một vật ghê tởm lắm đó!

Goddard xem xét lại hòn đá cẩn thận.

– Vâng. Cô nói phải đấy. Chỗ kẽ đá không gắn bằng bột đá mà lại bằng đất sét! Tôi lại chắc rằng phiến đá này có thể lấy ra, lắp vào được chứ chẳng không.

Swanhild nói:

– Thế thì phải có một cái gì lấy ra mới được.

Nàng liền rứt cái lưỡi gà ở chiếc giầy của nàng ra, lấy trong túi một con dao con và một đoạn dây gai, cắt cái lưỡi gà thành một miếng hình tròn mà nàng dùi một lỗ ở chính giữa; nàng xỏ qua lỗ ấy sợi dây đã thắt nút một đầu. Nàng cắt nghĩa:

– Dùng cái này thì đến gạch xây tường cũng giựt ra được. Tôi học được cái mẹo vặt này ở một người buôn lậu đấy.

Trong khi ấy, Goddard đi cạo chỗ đất nhét ở kẽ phiến đá, còn Luna thì đọc những nhan đề mấy pho sách để trên bàn.

– Sự ước muốn của lòng ước muốn này, Abraham tâm thư này, Duodeeim Portarum này. Ông Hammond ạ, sách hay cả đấy, mà xét ra cũng hiền lành thôi. Nhưng ta không nên quên rằng có lẽ quân lính của Cromwell đã hủy mất sách cấm hồi ấy.

Swanhild dán cái miếng da cho hút chặt lấy mặt phiến đá. Vừa kéo có một cái một tảng đá dài chừng hơn nửa mét đã tụt ra. Goddard ghé vai đỡ lấy mang đặt trên bàn. Rồi chàng kêu lên:

– Ô lạ này! Nửa phần đáy mở được lên như cái nắp đậy! Miss Bartendale, cô lại đây mà xem.

Luna đến xem.

Cái nắp đã mở. Một mùi tù hãm lâu ngày, khô khan lạnh nhạt và tanh tởm đưa ra. Swanhild rùng mình, bất giác đứng lùi lại.

Trong phiến đá rỗng lòng có hai khúc dài và dẹp bọc trong một thứ khăn mốc meo. Goddard rũ cái gói thứ nhất ra và dưới ánh đèn làm rơi xuống một vật nhăn nheo dài chừng 20 phân. Oliver đoán phỏng:

– Dễ thường là một gói xì gà giấu trong ấy từ bốn trăm năm nay, chắc?

Swanhild vẻ khó chịu, lắc đầu:

– Không, một cuộn da có lẽ đúng hơn.

Goddard lật lên xem, hốt nhiên chàng chùi vội tay lên áo măng-tô đang mặc trên người. Chàng cằn nhằn nói:

– Ồ! Một bàn tay! Bàn tay của một cái xác ướp(1) ([Xác ướp là xác người chết ướp bằng những thứ thuôc riêng để không tiêu nát được, chỉ khô đét lại, như xác vua Ai Cập ngày xưa.]).

Họ ngoảnh nhìn cả về Luna cô vẫn thản nhiên nhìn họ.

– Bàn tay danh vọng đấy!

Đó là lời truyên ngôn của cô.