Hồi 28: Ngàn dặm xa xôi tìm mẹ ở quê người - Ba mươi năm sau dật sĩ gặp ma đầu

Bình Tung Hiệp Ảnh Lục

Đăng vào: 11 tháng trước

.

Trương Đan Phong thầm kinh, lẩm bẩm: “Ồ, lão đúng là đối đầu với mình!”

Thế rồi lòng hoang mang, đứng ngây người ra đấy.

Chỉ thấy Tạ Thiên Hoa và Diệp Doanh Doanh tấn công liên tục như Trường Giang dậy sóng, trong chiêu có chiêu, trong thức có thức, biến hóa vô cùng nhưng lại phối hợp với nhau rất kín kẽ. Nhưng võ công của Thượng Quang Thiên Dã cao đến mức không tưởng tượng nổi, lão ta chỉ dùng đôi chưởng mà có thể chống lại song kiếm hợp bích, mỗi khi giở tay lên là đều tấn công, cho nên nhìn bề ngoài tuy lão ta bị song kiếm hợp bích bao trùm, tựa như một chiếc thuyền con lênh đênh giữa sóng biển, nhưng Trương Đan Phong có thể nhận ra những chiêu số thần kỳ của song kiếm hợp bích đều bị lão nhẹ nhàng hóa giải, cao siêu hơn bà lão trong rừng Tử trúc nhiều! Chàng thầm lo lắng cho sư phụ.

Thượng Quang Thiên Dã cũng kinh hãi, lúc này mới tin Trương Đan Phong không phải nói dối, trên đời quả nhiên có một bộ kiếm pháp thần kỳ, nếu không phải công lực của mình thâm hậu thì đã thất bại, lòng thầm nhủ: “Đệ tử như thế, sư phụ càng ghê gớm hơn”. Lão ta thầm bái phục Huyền Cơ Dật Sĩ, đang lúc nguy cấp. Tạ Thiên Hoa và Diệp Doanh Doanh chợt thấy Trương Đan Phong từ trong thạch thất chạy ra, không khỏi ngạc nhiên, họ vốn đã lọt xuống thế hạ phong, lúc này chỉ hơi phân thần thì càng tạo cơ hội cho Thượng Quang Thiên Dã phản công, Thượng Quang Thiên Dã liên tục chém ra ba chưởng đẩy lui hai người mấy bước rồi kêu lên: “Trương Đan Phong, té ra ngươi cũng là môn hạ của Huyền Cơ Dật Sĩ, được thôi, ngươi cũng hãy tới đây!”

Lúc này Trương Đan Phong mới nhớ rõ ràng, sư phụ hẹn mình cùng Vân Lối đến cùng đối phó với lão ma đầu này. Nhưng chàng tuy đã dần tỉnh táo, nhưng trong lòng vẫn hoang mang. Chỉ cảm thấy Thượng Quang Thiên Dã rất hợp với mình, không giống như một ma đầu, lòng thầm nhủ: “Kiếm khách bạc tình trong câu chuyện của lão ta là ai? Có phải là sư tổ của mình không?” Nghe Thượng Quang Thiên Dã kêu như thế, Trương Đan Phong đã nắm lấy chui kiếm nhưng vẫn nấn ná, chỉ mở to mắt nhìn mà chẳng biết ứng phó thế nào.

Ô Mông Phu thấy bộ dạng ngơ ngẩn của chàng, bước tới vỗ vai chàng nói: “Chúng ta hãy tỉ thí một trận. Xin đa tạ ngươi đã cho mượn quyển Huyền công yếu quyết”.

Ô Mông Phu thật sợ Trương Đan Phong không chống nổi sư phụ của mình cho nên cố ý dụ chàng tỉ thí.

Trương Đan Phong nói: “Đang yên vui tại sao ta với ngươi phải đánh nhau? Này sư phụ của ngươi xuất thân là kiếm khách hay cường đạo?”

Ô Mông Phu nghe chàng ăn nói giở điên giở dại như thế thì không khỏi ngạc nhiên. Tay phải đang định hỏi tiếp, chợt nghe ở phía sau núi vọng lại tiếng binh khí giao nhau, có hai nam một nữ đang vừa đánh vừa chạy, trong chốc lát đã đến gần họ. hai người đàn ông, kẻ đầu trọc là Triều Âm hòa thượng, kẻ mặt đen như nhọ nồi, đầu tóc bù xù chính là Chấn Tam Giới Tất Đạo Phàm, bọn họ bị một người đàn bà tay trái cầm kim câu, tay phải cầm ngân kiếm truy kích, cả hai bên đang đánh nhau rất kịch liệt.

Té ra ngày ấy ở bên ngoài Nhạn Môn quan, Triều Âm hòa thượng nghi ngờ Tạ Thiên Hoa thay lòng đổi dạ, nhưng không đuổi kịp ông ta, đang đi trên thảo nguyên thì gặp Chấn Tam Giới Tất Đạo Phàm, cả hai người đến phủ Thái sư của Dã Tiên quấy rối, sau đó Đổng Nhạc đã tìm đến, giải thích cặn kẽ dụng tâm của Tạ Thiên Hoa, Triều Âm mới biết là hiểu lầm cho nên hối hận. Đổng Nhạc hẹn họ đến núi Đường Cổ Lạp, họ chậm hơn hai người Tạ, Diệp, khi lên đến núi này thì gặp Kim Câu Tiên Tử Lâm Tiên Vận, thế là lao vào nhau. Trong số môn hạ của Thượng Quang Thiên Dã, võ công của Kim Câu Tiên Tử là tinh diệu nhất, tương đương với Tạ Thiên Hoa, Diệp Doanh Doanh, cao hơn Triều Âm hòa thượng rất nhiều, Triều Âm hòa thượng tuy có Chấn Tam Giới giúp đỡ nhưng cũng hơi thua kém.

Thượng Quang Thiên Dã kêu: “Các người đều là môn hạ của Huyền Cơ Dật Sĩ đấy ư? Được, cứ xông lên, các người hãy hợp lực đấu với ta, chỉ cần có thể ngang hàng thì ta có thể nhường cho lão già Huyền Cơ làm Minh chủ võ lâm”.

Lâm Tiên Vận đánh một mạch ra ba câu, hai kiếm, Triều Âm hòa thượng và Tất Đạo Phàm chỉ có thể chống đỡ, Lâm Tiên Vận đột nhiên rút kiếm và câu lại, hai người thâu thế không kịp suýt nữa đã té nhào.

Lâm Tiên Vận cười nói: “Không cần sư phụ để ý đến hai tên này, cứ để bọn chúng nghỉ ngơi một lát”.

Triều Âm hòa thượng và Tất Đạo Phàm đều là người nóng nảy, thế là cả giận nhảy vọt tới, chợt thấy Trương Đan Phong bước đến trước mặt, cứ nhìn chằm chằm vào họ, sắc mặt rất kỳ quái, lẩm bẩm: “Đây là nhị sư bá, còn đây…”.

Tất Đạo Phàm nói: “Trương Đan Phong, ngươi làm gì thế? Không nhận ra ta sao?”

Trương Đan Phong đột nhiên vỗ trán nói: “Đúng thế, ông là Chấn Tam Giới Tất Đạo Phàm!”

Triều Âm hòa thượng nói: “Ta đã hiểu dụng ý sư phụ của ngươi, ta không tính toán chuyện ngày trước ngươi phạm thượng nữa, sao ngươi không đến giúp sư phụ của ngươi?”

Lúc này Trương Đan Phong đang suy nghĩ: “Sư phụ của mình có dụng ý gì?” Chàng ngờ ngợ rằng sư phụ ở trong một ngôi nhà lớn tại kinh thành Ngõa Thích, trong ngôi nhà đó có vươn hoa rất lớn, sư phụ truyền kiếm thuật cho mình trong vườn hoa, lúc này chàng đã nhớ lại thân thế của mình, đang nhớ đến đoạn hai nước Ngõa Thích và Trung Quốc đánh nhau, đang đi theo manh mối này thì chợt nghe tiếng keng keng vang lên, liếc mắt nhìn chỉ thấy Thượng Quang Thiên Dã phất ống tay áo, cuộn kiếm của Tạ Thiên Hoa và Diệp Doanh Doanh chạm vào nhau, chiêu số kỳ diệu của song kiếm hợp bích lập tức bị rối loạn. Triều Âm hòa thượng không khỏi kêu hoảng: “Đan Phong, sao ngươi vẫn chưa ra tay!”

Ông ta đã vung thiền trượng định nhảy vọt lên, nhưng bị Kim Câu Tiên Tử nhẹ nhàng chặn lại.

Trương Đan Phong chợt nói: “Nhị sư bá, sư tổ của con là cường đạo hay kiếm khách?”

Lúc này Triều Âm hòa thượng đã rất tức giận, mắng ầm lên: “Ngươi điên rồi ư?”

Trương Đan Phong vẫn cầm chui kiếm, vẫn chưa quyết lòng, chợt thấy ở sườn núi lại có hai người chạy tới, chàng vừa nhìn thì cõi lòng đau nhói lên, khí huyết nhộn nhạo. Té ra có một thiếu nữ đỡ một ông già què đang đi lên núi, đó chính là cha con Vân Lối! Trương Đan Phong hầu như nghi mình đang nằm ác mộng, bất giác kêu lên: “Tiểu huynh đệ, tiểu huynh đệ!”

Chỉ thấy Vân Lối mặt biến sắc, nước mắt tuôn lã chã, cứ nhìn về phía mình mà mím chặt môi chẳng nói lời nào.

Cha của Vân Lối thì đang chống gậy tập tễnh đi lên núi, lướt nhìn Trương Đan Phong với ánh mắt sắc như dao, trong mắt đầy vẻ khinh bỉ oán hận. Trương Đan Phong cảm thấy một dòng khí lạnh dâng lên trong lòng, chợt nghe Triều Âm hòa thượng nói: “Này… ngươi là ai? Ồ, ngươi chẳng phải là Vân Đăng sư đệ đấy ư? Ngươi chưa chết!”

Rồi nhảy vọt tới đỡ Vân Đăng, hai sư huynh đệ nhìn nhau mà rơi nước mắt, Vân Lối đứng một bên cũng rưng rưng lệ, Trương Đan Phong vừa nhìn tới thì nàng đã vội vàng quay đầu né tránh.

Triều Âm hòa thượng ôm Vân Đăng chép miệng: “Mười năm không gặp mà đệ đã ra nông nỗi này ư?”

Triều Âm hòa thượng vốn chỉ lớn hơn Vân Đăng vài tuổi, nhưng lúc này Vân Đăng đã tóc bạc da mồi, trông còn già hơn cả Triều Âm hòa thượng!

Té ra Vân Đăng biết đồng môn sư huynh của mình sẽ gặp nhau trên núi này, ông ta tuy biết Trương Đan Phong cũng sẽ đến, nhưng vì muốn gặp đồng môn nên không ngại gian khổ, bảo con gái đưa lên núi. Mười ngày nay, hai cha con họ đều cố gắng tránh nhắc đến chuyện nhà họ Trương, ngày hôm ấy Vân Đăng cũng biết tình ý của con gái đối với Trương Đan Phong, tuy đã nổi giận nhưng sau đó không nhắc đến, cũng không trách Vân Lối. Vân Lối từ thần sắc của ông ta cũng biết kiếp này chẳng hy vọng trở lại với Trương Đan Phong. Lúc này nàng lòng đau như dao cắt, vừa đau lòng cho cành ngộ của cha mình, vừa thắt ruột cho tình cảnh của mình.

Chợt nghe tiếng binh khí giao nhau, chỉ thấy Thượng Quang Thiên Dã phất ống tay áo, lại cuộn kiếm của Tạ Thiên Hoa và Diệp Doanh Doanh lại với nhau, kiếm thế bị rối loạn, càng nhìn thì càng lo lắng.

Vân Lối nghe tiếng quát của Triều Âm hòa thượng, thấy sư phụ lộ vẻ bàng hoàng, chợt nhảy vọt ra, rút cây Thanh Minh kiếm xông vào vòng chiến. Diệp Doanh Doanh nói: “Lui mau!”

Thượng Quang Thiên Dã phất ống tay áo tới, nói: “Ả nha đầu, ngươi cũng muốn xem náo nhiệt ư?” Thế nhưng lão đã nương tay, chỉ dùng ba thành công lực, kiếm thế của Diệp Doanh Doanh bị lão ta cuốn vào kiếm của Vân Lối, Vân Lối thì cảm thấy hổ khẩu tê rần, thanh kiếm suýt tý nữa rơi khỏi tay. Ngay lúc ấy, một ánh bạch quang xẹt tới, Trương Đan Phong cũng nhảy vào trận. Thượng Quang Thiên Dã cười rằng: “Ngươi cũng đến đấy ư?”

Tạ Thiên Hoa chém ngang thanh trường kiếm, ống tay áo của Thượng Quang Thiên Dã chưa kịp rút lại thì nghe soạt một tiếng, đã bị thanh bảo kiếm của Trương Đan Phong chém đứt một mảnh.

Theo lý mà nói võ công của Trương Đan Phong không bằng Tạ Thiên Hoa, kém xa Thượng Quang Thiên Dã, làm sao có thể chém đứt tay áo của lão? Một là vì lúc nãy Thượng Quang Thiên Dã chẳng qua chỉ muốn giật kiếm của Vân Lối, cho nên chỉ dùng có ba phần lực; hai là vì đã bị hai người Tạ, Diệp kìm chế; ba là vì thanh kiếm của Trương Đan Phong chém sắt như bùn.

Thượng Quang Thiên Dã không khỏi thất kinh, thế là vận kình lực phất cả hai ống tay áo, cuộn bốn thanh kiếm kêu leng keng với nhau, miệng khen rằng: “Hay cho thanh kiếm chém sắt như bùn!”

Hai kiếm của Trương, Vân vừa hợp lại đã phân ra, Vân Lối sử dụng một chiêu Lưu Tinh Cản Nguyệt, Trương Đan Phong đánh ra một chiêu Bạch Hồng Quán Nhật, một kiếm đâm vào mặt, một kiếm đâm vào ngực, hai luồng ánh sáng đan chéo vào nhau. Thượng Quang Thiên Dã thối lùi ba bước, ống tay áo thu lại, rồi nhẹ nhàng vỗ ra ba chưởng, Trương Đan Phong không dám tiến tới, lách người né tránh, Thượng Quang Thiên Dã khi xoay người lại hóa giải chiêu số song kiếm hợp bích của Tạ Thiên Hoa và Diệp Doanh Doanh.

Cuộc chiến ác liệt vô cùng, bốn người chia làm hai cặp, kết thành một màn kiếm quang, xung quanh tựa như có hàng trăm hàng ngàn thanh kiếm nhốt Thượng Quang Thiên Dã vào ở giữa. Thượng Quang Thiên Dã lúc phất áo lúc phóng chưởng, toàn sử dụng loại công phu thượng thừa nhất, tuy bị màn kiếm quang chụp lại nhưng cũng phản kích liên tục, đôi bên đều khó phân thắng bại.

Triều Âm hòa thượng quên cả nói chuyện, đỡ Vân Đăng đứng xem, Ô Mông Phu và Lâm Tiên Vận cũng há mồm trợn mắt, bất giác đứng gần với nhau. Cuộc chiến đang lúc căng thẳng, chợt nghe tiếng người kêu lên, Ô Mông Phu quay đầu nhìn lại, chỉ thấy có một ông già tuổi khoảng ngũ tuần, trông giống như một ông lão nhà quê hai tay bưng một vật chạy gấp tới. Ô Mông Phu cả kinh, nhận ra ông già ấy chính là đại đệ tử của Huyền Cơ Dật Sĩ, Kim Cương Thủ Đổng Nhạc, trong số các đệ tử của Huyền Cơ Dật Sĩ, ông ta là người có công lực cao nhất. Ô Mông Phu vẫn chưa biết ông ta đang cầm vật gì, chỉ nghĩ ông ta nhảy đến trợ chiến, chợt nghĩ bụng: “Sư phụ một mình đánh với bốn người, khó khăn lắm mới giữ được cân bằng, nếu lại thêm Đổng Nhạc thì chỉ e sẽ thất bại”.

Đổng Nhạc lướt qua người y, Ô Mông Phu vội vàng trở tay vỗ ra một chưởng, Đổng Nhạc kêu lên: “Đừng hòng vô lễ!” Trong khoảnh khắc chợt thấy Lâm Tiên Vận kéo y lại, Ô Mông Phu chưa kịp thu tay, hai chưởng đã giao nhau, công lực Nhất chỉ thiền của y chỉ dồn ra đến đầu ngón tay thì bị Kim Cương thủ đánh bật ra đến cả hơn một trượng.

Chỉ thấy Đổng Nhạc chạy tới, đột nhiên quỳ xuống đất, lớn giọng nói: “Gia sư sai đệ tử đến thỉnh an tiền bối”.

Té ra ông ta đang bưng bái tráp của Huyền Cơ Dật Sĩ. Theo quy củ giang hồ, Ô Mông Phu không thể ngăn cản người thay mặt một đại tôn sư như Huyền Cơ Dật Sĩ đến bái sơn, còn Thượng Quang Thiên Dã phải đích thân nhận bái tráp. Nhưng Thượng Quang Thiên Dã đang bị bốn người bao vây làm sao có thể nhảy ra được!

Chợt nghe Thượng Quang Thiên Dã cười ha hả, nói: “Không cần đa lễ!”

Chỉ thấy lão vung hai ống tay áo lên, đột nhiên hai bàn tay từ trong hai ống tay áo thò ra, trong chớp mắt đã điểm bốn chỉ về phía bốn người Tạ, Diệp, Trương, Vân, đó chính là Nhất chỉ thiền công lợi hại nhất của lão, bốn người đều bất đồ thối lui một bước. Thượng Quang Thiên Dã phóng vọt người lên, phất ông tay áo xuống tựa như Giao long uống nước, chỉ trong chớp mắt đã cuộn bái tráp trong tay Đổng Nhạc tới, Đổng Nhạc không khỏi kinh hãi. Ông ta không thể nào tưởng tượng nổi Thượng Quang Thiên Dã có thể làm được điều đó. Đổng Nhạc vừa mới thi lễ, đứng qua một bên, chợt nghe Ô Mông Phu, Lâm Tiên Vận kêu thét lên, kiếm của Trương Đan Phong đã đâm vào vai Thượng Quang Thiên Dã.

Té ra Trương Đan Phong đã học kỹ Huyền công yếu quyết, Huyền công yếu quyết giảng về các nguyên lý của võ thuật, nếu hiểu được quyển sách này có thể biết được võ công của các nhà, cho nên sau khi học kỹ Huyền công yếu quyết, không cần thầy dạy mà có thể thông hiểu được tất cả các loại công phu khác. Trương Đan Phong lúc nãy đứng nhìn, thấy Thượng Quang Thiên Dã vận dụng công phu thượng thừa trấn áp uy lực song kiếm hợp bích của Diệp Doanh Doanh và Tạ Thiên Hoa, cho nên chàng đã hiểu đại khái đường lối võ công của lão, sau khi đích thân ra tay thì tiến thêm một bước, đã hiểu được nguyên tắc công thủ ứng phó, chỉ vì công lực quá kém xa cho nên không thể phản công được. Nay Thượng Quang Thiên Dã háo thắng, cố gắng nhận bái tráp khi bị vây công, trong chớp mắt đã gắng gượng đánh ra Nhất chỉ thiền công, đẩy lùi bốn người, tuy rất tinh diệu, nhưng vai trái đã để lộ sơ hở, Trương Đan Phong thừa cơ điểm vào huyệt Kiên Tĩnh trên vai trái của Thượng Quang Thiên Dã. Song kiếm hợp bích đã rất kín kẽ, Trương Đan Phong vừa đánh ra, Vân Lối đương nhiên cũng đâm kiếm ra, soạt một tiếng, đã đâm vào huyệt Kiên Tĩnh trên vai phải của Thượng Quang Thiên Dã.

Huyệt Kiên Tĩnh là một trong ba mươi sáu đại huyệt của con người, nối với xương tỳ bà, nếu bị người ta điểm trúng nặng thì bị tàn phế, nhẹ thì bị tê liệt. Tạ Thiên Hoa và Diệp Doanh Doanh vội vàng đâm kiếm ra, định hạ Thượng Quang Thiên Dã. Nào ngờ công phu của Thượng Quang Thiên Dã đã đạt đến mức xuất thần nhập hóa, Trương Đan Phong sắp đâm mũi kiếm vào vai lão, lão ta bỗng trầm vai xuống, một sức mạnh kéo mũi kiếm xuống, khiến chàng không thể nào rút ra được, chỉ đành dùng kình đâm xuống, nhưng mũi kiếm chạm phải một vật mềm mềm, té ra đó là tà áo của lão. Nhìn lại Vân Lối cũng như thế, rõ ràng cây Thanh Minh kiếm đã đâm vào vai phải của Thượng Quang Thiên Dã nhưng cũng trượt sang một bên.

Tạ Thiên Hoa và Diệp Doanh Doanh chưa biết y đã hóa giải chiêu kiếm hiểm hóc ấy, thế là cả mừng vung kiếm tiến tới, công phu song kiếm hợp bích của họ hơn hẳn Vân Lối và Trương Đan Phong, chỉ thấy kiếm quang loang loáng, kiếm khí như cầu vồng hợp thành một màn ánh sáng chém thẳng tới ngay eo. Thượng Quang Thiên Dã kêu lên: “Hay lắm!” Thế rồi vung hai ống tay áo, cuộn kiếm của hai người Tạ, Diệp vào trong, phát ra một nguồn kình lực hóa giải kiếm thế.

Cứ như thế hai bên đã rơi vào cục diện giằng co, Thượng Quang Thiên Dã thì dùng hai vai tiếp kiếm của hai người Trương, Vân, hai ông tay áo thì chặn kiếm của hai người Diệp, Tạ, có thể dùng nội kình để chống lại uy lực của hai cặp song kiếm hợp bích, võ công của Thượng Quang Thiên Dã tuy đã đến mức xuất thần nhập hóa nhưng cũng mất sức vô cùng. Nhưng bốn người Tạ, Diệp, Trương, Vân cũng bị nội kình của lão dẫn dắt, không thể nào rút bốn thanh kiếm ra được.

Lúc này tình thế đã rất nguy hiểm, đôi bên đã trở thành thế cỡi cọp, nếu không cẩn thận thì mất mạng, đệ tử của hai bên đều kinh hồn bạt vía, ai cũng toát mồ hôi lạnh, nhưng không ai bước lên hóa giải.

Đang lúc căng thẳng, chợt Thượng Quang Thiên Dã thối lui một bước, vai phải trầm xuống, mũi kiếm hất lên vai của lão, nhưng Tạ Thiên Hoa và Diệp Doanh Doanh cũng bước tới phía trước một bước, sắc mặt ngưng trọng, rõ ràng là đang dùng lực. Vân Đăng lo cho con gái, bất giác kêu lên một tiếng, tiếng kêu chưa dứt thì chợt nghe tiếng cười ha hả vang vọng, trong sơn cốc lại xuất hiện thêm một ông già.

Ông già này tướng mạo tiên phong đạo cốt, đôi chân mày đã bạc trắng, nhưng sắc mặt hồng hào tựa như trẻ thơ, tất cả những người đứng ở đây võ công đều cao cường nhưng không biết ông ta đã đến từ lúc nào.

Ông già ấy chính là Huyền Cơ Dật Sĩ. Triều Âm và Vân Đăng vui mừng hớn hở, vừa kêu lên một tiếng sư phụ thì chỉ thấy Huyền Cơ Dật Sĩ đã nhẹ nhàng tiến vào trong trường, cười ha hả, nói: “Bằng hữu, nổi giận với bọn tiểu bối có ích gì!” ông ta đột nhiên quét cây phất trần trong tay, bốn thanh kiếm va vào nhau kêu loảng xoảng, Huyền Cơ Dật Sĩ quát: “Các ngươi đừng hòng vô lễ với bậc trưởng bối, hãy lui xuống cho ta!”

Năm người như trút được gánh nặng. Té ra lúc nãy công phu của Vân Lối kém nhất, bị Thượng Quang Thiên Dã dùng lực dẫn của vai phải húc lấy, suýt nữa không thể chống nổi, nhưng hai người Tạ, Diệp thừa cơ tiến tới, cho nên chiếm được thượng phong. Nếu Huyền Cơ Dật Sĩ không đến thì có lẽ hai bên sẽ rơi vào cục diện lưỡng bại câu thương!

Thượng Quang Thiên Dã thở dài, nói: “Ba mươi năm cũng gặp lại, quả nhiên võ công của ông đã đến mức thông huyền diệu cảnh, tôi không tranh chiếc ghế Minh chủ võ lâm với ông nữa!”

Huyền Cơ Dật Sĩ cười rằng: “Bằng hữu đâu cần khiêm nhường như thế, nói ra tôi còn phải cam bái hạ phong”.

Huyền Cơ Dật Sĩ dốc hết tâm lực cả đời sáng tạo ra hai bộ kiếm pháp, tự cho là vô địch thiên hạ, nào ngờ hai người Tạ, Diệp song kiếm hợp bích mà cũng bị Thượng Quang Thiên Dã khắc chế, lại thêm hai người Trương, Vân chỉ có thể ngang sức với lão, cho nên Huyền Cơ Dật Sĩ khâm phục lão thật sự chứ không phải khách sáo.

Chợt nghe một tiếng tiêu lanh lảnh vang lên, trong khoảnh khắc, lại xuất hiện thêm một người, Trương Đan Phong nhìn lại, té ra đó là bà lão trong rừng Tử trúc. Trong khoảnh khắc này, chỉ thấy Thượng Quang Thiên Dã biến sắc, hạ giọng nói: “Khó quên ân oán khó quên nàng, chỉ có tình si mới là thật”.

Trương Đan Phong buột miệng hỏi: “Trong hai người ai là kiếm khách ai là cường đạo?”

Tạ Thiên Hoa cả kinh nghĩ bụng: “Tại sao Trương Đan Phong lại buông lời vô lễ trước mặt hai vị lão tiền bối thế này?” Thấy bộ dạng thất thần của chàng, trong lòng ông ta rất ngạc nhiên.

Chỉ nghe Thượng Quang Thiên Dã cả cười: “Cần gì phải hỏi thêm ai là kiếm khách ai là cường đạo? Hôm nay kiếm khách cường đạo không đánh không quen biết, ta xin trả lễ!” Thế rồi ngầm vận kình vào mười đầu ngón tay, vung ra một đòn Nhất chỉ thiền công.

Té ra Thượng Quang Thiên Dã tuy đã tỉnh ngộ, nhưng trong lòng vẫn còn một chút ý háo thắng, lão vốn đã muốn cam bái hạ phong, nhưng chợt thấy ý trung nhân ba mươi năm trước tự nhiên xuất hiện cười mà không phải cười, ánh mắt hình như nhìn kẻ đối đầu của lão, lòng mới nổi cơn ghen, ý nghĩ tranh thắng nổi lên, cho nên muốn thử Huyền Cơ Dật Sĩ.

Huyền Cơ Dật Sĩ mỉm cười, hai tay chắp lại, chỉ thấy ống tay áo của Thượng Quang Thiên Dã bồng bềnh tựa như nước hồ mùa xuân. Huyền Cơ Dật Sĩ đột nhiên vái dài nói: “Võ công của lão huynh là thiên hạ đệ nhất, tôi xin cam bái hạ phong!” Thế rồi xoay người toan xuống núi.

Những người xung quanh đều không biết, nhưng bà lão ấy và Thượng Quang Thiên Dã đều biết rằng, Huyền Cơ Dật Sĩ đã nhường một chiêu.

Thượng Quang Thiên Dã xuất chỉ trước nhưng bị chưởng lực của Huyền Cơ Dật Sĩ hóa giải, dư thế vẫn chưa hết, cho nên khiến cho ống tay áo của Thượng Quang Thiên Dã phập phồng. Sau đó Huyền Cơ Dật Sĩ lắc lư người tựa như không chống nổi chỉ lực, nhưng chẳng qua ông ta giả vờ mà thôi.

Huyền Cơ Dật Sĩ nhường một chiêu, xoay người toan bỏ đi, bà lão chợt nhảy vọt tới trước mặt, cây gậy tre móc vào tà áo của Huyền Cơ Dật Sĩ. Huyền Cơ Dật Sĩ cười khổ nói: “Tôi đã nhận thua, bà còn giữ tôi lại làm gì?”

Thượng Quang Thiên Dã nói: “Lão già Huyền Cơ, ta không nhận ân tình này của ngươi, kẻ đáng ra đi là ta, ngươi cứ ở đây, chỉ mong ngươi đối xử tốt với bà ta!”

Bà lão vẫy tay, Thượng Quang Thiên Dã toan bước tới nhưng lại ngừng, chỉ nghe bà lão cười nói: “Hai người không cần đi đâu cả, luận về võ công, hai người đều là thiên hạ đệ nhất, không cần tranh nhau cũng chẳng cần nhường nhau nữa”.

Bà lão nói rất thiên vị, bởi vì Thượng Quang Thiên Dã đã ác đấu cả nửa ngày, đương nhiên đã hao phí nội kình, cho nên chẳng chống lại nổi Huyền Cơ Dật Sĩ.

Huyền Cơ Dật Sĩ nhíu mày, lòng nhủ thầm: “Nếu bà không muốn xem chúng tôi đánh nhau, có ai muốn phiền phức như thế này”.

Chỉ nghe bà lão chợt thở dài nói: “Thấm thoắt mà đã ba mươi năm trôi qua, bọn người chúng ta đều đã già cả. Giờ đây nghĩ lại những chuyện đã làm thời còn trẻ quả thật rất buồn cười. Đời người có được mấy lúc, nếu cứ như xưa nữa thì bọn hậu bối sẽ cười chê. Mối gút thời còn trẻ không tháo được, lúc già cũng nên tháo. Huyền Cơ ca ca, Thượng Quan đệ đệ, từ rày về sau ba chúng ta không cách xa nhau nữa, cùng nhau nghiên cứu võ công thượng thừa nhất để lại công đức cho bọn hậu bối, há chẳng tốt hay sao?”

Huyền Cơ Dật Sĩ nghe bà ta nói rất thành tâm như thế, không khỏi chột dạ, tâm trạng chán ghét bà ta trong ba mươi năm qua đã hoàn toàn biến mất. Thượng Quang Thiên Dã thì càng xốn xang trong lòng, nghe bà ta gọi ca ca, đệ đệ rất thân thiết, tựa như vẫn là tiểu cô nương kêu vận lang năm xưa, lòng thầm nhủ: “Bà ta quả nhiên đã thấu triệt hơn mình, nút thắt thời còn trẻ không gỡ được, đến già coi như không còn nữa”.

Lão hiểu nút thắt mà Tiêu Vận Lan nói ở đây chính là mối quan hệ yêu đương thù hận giữa ba người bọn họ, nay cả ba đều là những kẻ sắp gần đất xa trời, chẳng thể nào nói chuyện hôn nhân, vậy nếu ba người trở thành tri kỷ, cùng nghiên cứu võ học, chẳng tốt hơn hay sao?

Nhưng tại sao Tiêu Vận Lan đột nhiên lại tỉnh ngộ ra, té ra bà ở trong rừng tử trúc ba mươi năm, lúc đầu rất oán hận Huyền Cơ Dật Sĩ, thất vọng đối với Thượng Quang Thiên Dã, nhưng cuối cùng dần dần hiểu ra rằng tất cả đều do lòng ham thích hư danh của mình mà ra. Kỳ hạn ba mươi năm cũng sắp tới, lòng càng hồi hận hơn, nghĩ bụng không nên vì mình mà khiến cho hai bậc dị nhân trong võ lâm kết oán nhau suốt đời cho nên vội vàng chạy đến đây, lại thấy họ cứ nhường lẫn nhau, cho nên quyết ý hóa giải cho họ.

Thượng Quang Thiên Dã đang suy nghĩ, chợt thấy Lâm Tiên Vận bước đến bẩm cáo: “Xin sư phụ cho phép con đến gặp Ô Mông Phu sư huynh”.

Thượng Quang Thiên Dã liếc mắt nhìn, chỉ thấy Ô Mông Phu đang quỳ gối xuống đất, đầu bốc khói trắng.

Thượng Quang Thiên Dã thất kinh, lộ vẻ ngạc nhiên, nói: “Té ra hắn đã trúng Kim Cương chưởng”.

Đổng Nhạc rất lo lắng, quỳ xuống bẩm cáo với Huyền Cơ Dật Sĩ: “Đệ tử trình bái tráp, trong lúc không cẩn thận đã đả thương y, đệ tử muốn cùng công lực của bản thân giúp y chữa trị”.

Huyền Cơ Dật Sĩ lắc đầu, chợt nói: “Thượng Quan lão huynh, lần này thì tôi thật sự đã khâm phục. Không ngờ đồ đệ của ông cũng có được nội công tinh diệu như thế, lần này mới đúng là công phu thượng thừa thật sự, so ra những điều tôi học trước đây chỉ là những thứ tầm thường”.

Ông ta vừa nói ra, đệ tử của hai phái đều ngạc nhiên, không biết Huyền Cơ Dật Sĩ muốn nói đến loại công phu nào? Thượng Quang Thiên Dã cười khổ sở: “Nếu võ công của ông tầm thường, võ công của tôi chẳng bằng đến bàng môn tả đạo”.

Rồi chậm rãi bước đến trước mặt Ô Mông Phu, đưa tay bắt mạch, sắc mặt lộ vẻ ngạc nhiên. Kim Cương chưởng lực chẳng phải là thứ võ công tầm thường, Ô Mông Phu tiếp một chưởng, với công lực của y ít nhất cũng phải bảy ngày sau mới hồi phục lại, nhưng giờ đây Thượng Quang Thiên Dã bắt mạch mới phát giác loại khí công mà Ô Mông Phu đang vận dụng không phải là tâm pháp mình đã truyền, công lực của y không đột nhiên tăng lên, chỉ vì vận khí đúng cách mà đã chữa trị được vết thương, điều đó quả thực khó hiểu!

Thượng Quang Thiên Dã cười khổ sở, đột nhiên vỗ một chưởng vào lưng Ô Mông Phu, quát lớn: “Lên!”

Ô Mông Phu quả nhiên đứng lên, đi lại như bình thường. Thượng Quang Thiên Dã dùng công lực của bản thân giúp y hồi phục, lập tức hỏi: “Là cao nhân nào đã chỉ điểm cho ngươi? Ngươi có thể theo minh sư khác, không cần theo ta nữa!”

Ô Mông Phu lo lắng vô cùng, nói: “Đệ…. đệ tử vận dụng công phu của phái khác, mong sư phụ thứ tội. Đệ tử không được ai chỉ điểm cả”.

Thượng Quang Thiên Dã cười lạnh: “Không được ai chỉ điểm, vậy là ngươi không thầy mà cũng học được hay sao?” Trương Đan Phong bước ra, thỉnh an sư tổ. Huyền Cơ Dật Sĩ hỏi: “Đây là đệ tử của ai?”

Tạ Thiên Hoa nói: “Đệ tử Trương Đan Phong do con thu nhận”.

Huyền Cơ Dật Sĩ nói: “Đệ tử của con giỏi hơn đệ tử của ta nhiều. Xem ra thành tựu sau này của hắn hơn hẳn các con, cả ta cũng không bằng hắn”.

Tạ Thiên Hoa vừa lo vừa mừng, nói: “Sư phụ đã quá khen hắn”.

Trương Đan Phong dập đầu mấy cái trước mặt sư tổ, rồi lại thi lễ với Thượng Quang Thiên Dã: “Tôi biết ai chỉ điểm cho ông ta”.

Thượng Quang Thiên Dã nói: “Là ai?”

Trương Đan Phong nói: “Là một người đã sống cách đây cả trăm năm”.

Thượng Quang Thiên Dã nói: “Nói bậy”. Thế rồi quay sang Huyền Cơ Dật Sĩ nói: “Đồ tôn của ông ở trong thạch thất của tôi bảy ngày, tôi đã xem mạch tượng của hắn, hình như mắc phải tâm bệnh, thần trí vẫn chưa tỉnh táo, ông phải chữa trị cho hắn”.

Trương Đan Phong chợt cười ha hả nói: “Ai nói thần trí của ta vẫn chưa tỉnh táo? Ta biết ông là một kẻ si tình, ba mươi năm trước là một kẻ cường đạo. Ông tự cho mình là kẻ si tình, nhưng không màng đến sự sống chết của đồ đệ, đã chia rẽ bọn họ, tôi không phục cho nên đã nhờ cổ nhân chỉ điểm cho ông ta”.

Chàng vừa nói ra, mọi người lại kinh hoàng thất sắc, không ngờ Trương Đan Phong lại vô lễ với Thượng Quang Thiên Dã như thế, Huyền Cơ Dật Sĩ chẳng nói chẳng rằng, tựa như đang suy đoán trong lòng, coi lời Trương Đan Phong là sự thực. Thượng Quang Thiên Dã chột dạ, chợt nói: “Ô Mông Phu, hắn nói có thực không?”

Ô Mông Phu nói: “Không sai tý nào”. Rồi lấy ra một quyển sách.

Thượng Quang Thiên Dã cầm lấy quyển sách ấy xem, chỉ thấy ngoài bìa đề bốn chữ Huyền công yếu quyết, phía dưới có viết mất chữ: “Bành Oánh Ngọc viết”. Trương Đan Phong cười ha hả nói: “Tôi có lừa ông hay không? Người này chính là sư phụ của hai vị Hoàng đế năm xưa. Ông hãy tự lật ra mà xem, coi thử có cần giữ thân đồng tử mới học được Nhất chỉ thiền của ông hay không?”

Thượng Quang Thiên Dã kinh hoảng kêu lên: “Té ra sách của Bành hòa thượng nằm trong tay ngươi, là ngươi cho hắn mượn?”

Trương Đan Phong mỉm cười không nói, chợt cao giọng ngâm rằng: “Ông có giọt nước cam lồ, rưới vào khắp cõi nhân gian. Phàm là những người yêu nhau đều trở thành của nhau”.

Thượng Quang Thiên Dã giật mình, Huyền công yếu quyết là vật quý trong võ lâm, Trương Đan Phong vì muốn giúp cho Ô Mông Phu và Lâm Tiên Vận đến với nhau đã cho y xem, quả thật hiếm thấy. Trong khoảnh khắc, bao nhiêu ân oán tình nghiệt trong lòng Thượng Quang Thiên Dã đều tan biến, chợt cười ha hả nói: “Tiểu huynh đệ, chỉ có ngươi, chỉ có ngươi mới là kẻ si tình nhất trong thiên hạ”.

Huyền Cơ Dật Sĩ cười rằng: “Thượng Quan huynh, ông vẫn còn có tánh trẻ con, chẳng khác gì ba mươi năm trước”.

Thượng Quang Thiên Dã nghiêm mặt nhìn Ô Mông Phu, Lâm Tiên Vận nói: “Các người đều là đệ tử giỏi của ta, ta đã hiểu nhầm các người mười mấy năm nay, giờ đây ta không cấm đoán các người nữa, ta sẽ để lại căn thạch thất này lại cho các người”.

Ô Mông Phu và Lâm Tiên Vận đều cả mừng, cả hai quỳ xuống lạy tạ. Thượng Quang Thiên Dã cười rằng: “Các ngươi phải tạ y mới phải”.

Ô Mông Phu mừng rỡ, chẳng màng đến vai vế, thế là quay sang thi lễ với Trương Đan Phong rồi trả Huyền công yếu quyết cho chàng. Y tuy không thông minh như Trương Đan Phong, nhưng trong vòng mấy ngày đã nhớ kỹ các luyện khí trong Huyền công yếu quyết cho nên không cần xem nữa.

Thượng Quang Thiên Dã ngửa mặc cười lớn: “Suốt đời này ta đã đánh hàng trăm trận lớn nhỏ, nhưng trận hôm nay mới là thống khoái nhất! Không tranh được cái danh thiên hạ đệ nhất, nhưng bao nhiêu ân oán tội nghiệt đều tan biến. Huyền Cơ lão huynh, đã đến lúc chúng ta phải ra đi!”

Rồi chợt liếc mắt nhìn Ô Mông Phu: “Đại sư huynh của ngươi cũng đến, hắn đến thật đúng lúc”.

Đàm Đài Diệt Minh đang bước lên núi, thấy sư phụ đứng sánh vai cùng Huyền Cơ Dật Sĩ thì rất ngạc nhiên, y vốn được Trương Tôn Châu nhờ, nên ngăn không cho Thượng Quang Thiên Dã đả thương Trương Đan Phong. Nhìn thấy tình cảnh này mới nghĩ hai nhà đã hòa thuận với nhau cho nên lòng nhẹ hẳn, liếc mắt sang nhìn lại thấy Ô Mông Phu và Lâm Tiên Vận đứng sánh vai bên cạnh sư phụ tựa như rất thân mật, Đàm Đài Diệt Minh càng không khỏi ngạc nhiên hơn.

Từ nhỏ Trương Đan Phong đã ở bên cạnh Đàm Đài Diệt Minh, thần trí của chàng vốn chỉ hồi phục sáu bảy phần, vừa thấy Đàm Đài Diệt Minh thì những chuyện thời ấu thơ lướt qua trong đầu, chàng cũng đã nhớ lại thân thế và quốc hận gia thù của mình, chàng chạy tới kéo Đàm Đài Diệt Minh nói: “Đàm Đài tướng quân, cha tôi vẫn khỏe chứ?”

Đàm Đài Diệt Minh nói: “Ông đang mong công tử trở về”.

Thượng Quang Thiên Dã nói: “Các người đã biết nhau rồi chứ?”

Đàm Đài Diệt Minh nói: “Bẩm cáo sư phụ, y là tiểu chủ nhân của con”.

Thượng Quang Thiên Dã cười ha hả nói: “Huyền Cơ lão huynh, xem ra chúng ta đã là người một nhà từ lâu, cần gì phải tranh đấu nữa?”

Thượng Quang Thiên Dã vẫy Đàm Đài Diệt Minh đến trước mặt mình nói: “Ta đã muốn rời khỏi nơi này, Tiên Vận đã theo ta nhiều năm, ta sẽ để căn nhà đá lại làm quà cưới cho hắn, từ hôm nay trở đi, con sẽ là đệ tử trưởng môn của phái chúng ta, con phải đốc thúc sư đệ, sư muội siêng năng luyện công”.

Lâm Tiên Vận xúc động nói: “Sư phụ đang ở đây, cần gì phải ra đi? Hãy cho chúng con hầu hạ người vài năm nữa để báo ơn thầy”.

Thượng Quang Thiên Dã cười nói: “Ba mươi năm trước, vì ta không đánh thẳng nổi Huyền Cơ lão huynh nên chạy đến nơi này, giờ đây ân oán đã tiêu tan, ta phải trở về Trung Nguyên thôi. Con đã có bạn, ta cũng có bạn già!”

Đàm Đài Diệt Minh quỳ xuống nhận lệnh. Lâm Tiên Vận nghe lão nói như thế thì đỏ mặt, e thẹn nói: “Chỉ cần sư phụ vui lúc tuổi về chiều, con đã yên lòng”. Thế rồi cùng Ô Mông Phu quỳ xuống tạ ơn.

Huyền Cơ Dật Sĩ nói: “Xem ra tôi cũng phải dặn dò đệ tử của mình”. Rồi gọi đệ tử đến trước mặt, nói rằng: “Đổng Nhạc là người cẩn thận, theo ta lâu nhất, tất cả mọi chuyện của sư môn đều do hắn nắm giữ. Thiên Hoa và Doanh Doanh có tư chất tốt nhất, mỗi người học nửa bộ kiếm pháp của ta, từ rày về sau cho phép truyền thụ cho nhau, kiếm có thể hợp bích, người cũng có thể hợp bích, đại sư huynh của các con sẽ chủ hôn”.

Tâm nguyện mười mấy năm về trước của Tạ Thiên Hoa và Diệp Doanh Doanh đã được thỏa mãn, đương nhiên vui mừng vô hạn, nhưng trước mặt đệ tử nên không dám biểu lộ ra, chỉ nhìn nhau mỉm cười. Đổng Nhạc bước tới chúc mừng cho sư đệ và sư muội, lòng rất vui nhưng cũng có chút ghen tị. Té ra ông ta cũng có ý từ lâu với sư muội, nhưng biết sư muội một lòng hướng về Tạ Thiên Hoa, cho nên hai mươi năm qua không hề biểu lộ. Nay thấy sư đệ, sư muội song kiếm hợp bích, quả đúng là một đôi người ngọc trời đất tạo ra, cho nên lòng ghen tị ấy cũng thăng hoa, tan biến như làn khói mỏng dưới ánh mặt trời.

Huyền Cơ Dật Sĩ lại nói: “Vân Đăng ở trong môn phái chúng ta ngắn nhất, võ công vẫn chưa luyện thành, bản thân lại trải qua nhiều gian nan, ta vẫn còn lo lắng cho hắn. Sau khi ta ra đi, các con phải chăm sóc cho hắn. Đổng Nhạc, con có thể truyền tâm pháp nội công của bổn môn cho Vân Đăng. Chỉ cần khổ luyện thì sau này sẽ có thành tựu”.

Vân Đăng không khỏi khóc òa lên, Trương Đan Phong cũng rất lo lắng, không dám nhìn Vân Lối.

Đổng Nhạc lại nói: “Sư đệ thoát chết, nay lại có thể gặp lại con cái, lại được sư phụ gia ân, không nên quá đau lòng nữa”.

Huyền Cơ Dật Sĩ vuốt nhẹ tóc Vân Lối nói: “Con có một đứa con gái hiếu thuận như hoa như ngọc, đã may mắn hơn ta nhiều. Người sống trên đời chỉ mong chẳng hổ thẹn với lòng, thì coi như đã an lạc, con là kẻ trung thần hiếu tử, tuy cuộc đời đã gặp nhiều trắc trở, nhưng nghĩ lại đã đầy đủ, không nên khóc nữa”.

Vân Đăng ngừng khóc, cảm nhận được sự ấm áp của sư môn, nhưng nỗi bi phẫn trong lòng vẫn không giảm xuống. Nghĩ lại con trai của kẻ thù lại chính là sư điệt của mình, lại là người sư phụ khen ngợi nhiều nhất, tuy trong lòng không phục nhưng không thể nói ra trước mặt mọi người cho nên càng uất ức hơn. Chỉ nghe Huyền Cơ Dật Sĩ lại cười: “Điều khiến ta vui nhất là môn phái chúng ta đời sau lại giỏi hơn đời trước, đệ tử của Thiên Hoa chắc chắn sẽ làm rạng rỡ sư môn chúng ta, các người hãy dạy dỗ hắn cho kỹ”.

Bóng chiều đã ngả về tây, trời dần tối, bà lão cầm cây gậy trúc, nhẹ nhàng vẽ nửa vòng tròn, nói: “Xua tan bụi trần, bước ra khỏi ngũ hành. Sao các người lại có lắm chuyện phải dặn dò thế!”

Thượng Quang Thiên Dã vỗ tay cười: “Nói rất hay, nói rất hay! Từ nay chúng ta hãy làm bạn cùng mây ngàn. Huyền Cơ lão huynh, đã đến lúc chúng ta phải ra đi!”

Huyền Cơ Dật Sĩ xua tay với đám đệ tử, cao giọng ngâm: “Âm thấu hoa nghiêm chân diệu đề, bồ tát phi thụ kính phi đài!”

Ba người đều vỗ tay cả cười, lướt như bay dưới bóng hoàng hôn. Đệ tử của hai phái đều quỳ xuống đưa tiễn, chỉ thấy tà áo của ba người phấp phới, trong chớp mắt đã mất dạng.

Đổng Nhạc thầm than trong lòng, Đàm Đài Diệt Minh cũng có nhiều cảm xúc, không ngờ hai kẻ đối đầu lại trở nên thân thiết đến thế, so ra trên đời này còn có nhiều cuộc tranh chấp vô ý nghĩa. Ngẩng đầu nhìn lên chợt thấy Trương Đan Phong quỳ xuống ở phía sau vẫn chưa đứng dậy, nước mắt lưng tròng nhìn về phía trước, bộ dạng trông thẫn thờ. Đàm Đài Diệt Minh thất kinh, bước đến Trương Đan Phong vỗ nhẹ nói: “Công tử sao thế?”

Trương Đan Phong đang chìm vào nỗi bi thương, chàng thấy Ô Mông Phu và Lâm Tiên Vận, sư phụ của mình và sư phụ của Vân Lối đều đã được hoàn thành tâm nguyện, còn mình và ý trung nhân sẽ mãi xa nhau, giữa hai bên tựa như cách nhau một tấm cửa, người bên ngoài cửa thì không bước vào được, người bên trong thì không dám bước ra. Đàm Đài Diệt Minh hỏi mấy tiếng Trương Đan Phong đột nhiên ngẩng đầu ngâm rằng: “Khó quên ân oán khó quên nàng, chỉ có tình si mới là thật. Uổng cho ông là đệ tử của lão ma đầu mà không hiểu hai câu thơ ấy, hỏi ta làm gì? Ha ha, ông là ai, ta là ai? Nàng là ai? Ta hỏi trời trời không đáp, ông hỏi ta ta biết trả lời ra sao?” Trương Đan Phong nhớ đến tâm sự của mình, lòng chợt cảm thấy hoang mang, thần trí lại thất thường.

Trong khoảnh khắc này, Vân Lối cũng đau buồn vô hạn, chỉ thấy ánh mắt của Trương Đan Phong dần dần nhìn thẳng vào mặt nàng, trong ánh mắt chan chứa u oán, chan chứa tình thương! Khi nàng nhìn lại, chỉ thấy ánh mắt của cha cũng nhìn vào mình, trong ánh mắt ấy lại chứa bao nỗi phẫn hận, bao nỗi đau đớn! Khuôn mặt tiều tụy của cha dần dần che khuất cả bóng dáng của Trương Đan Phong, trong khoảnh khắc Vân Lối nhìn thấy ánh mắt của Trương Đan Phong, nàng suýt tý nữa kêu lên thành tiếng, nhưng nàng đã cố nén lại. Nàng né tránh ánh mắt của Trương Đan Phong, nàng cũng không dám nhìn ánh mắt của cha mình, cả hai đều là những người nàng yêu thương nhất, nàng không muốn làm cả hai đau lòng, nhưng nàng không thể không làm cho cả hai đau lòng. Nàng nuốt nước mắt của mình, nàng không dám nhìn hai người yêu thương mình nhất trong đời, nàng không dám tưởng tượng cảm xúc của hai người như thế nào, nhưng trái tim của nàng đã tan nát.

Đổng Nhạc, Tạ Thiên Hoa, Diệp Doanh Doanh đều cúi đầu. Mối ân oán này dù cho là thầy trò cũng không thể nào hóa giải được. Gió núi thổi tới, mỗi người đều cảm thấy lạnh đến thấu xương.

Đó chính là:

Một mối ân oán khó phân giải, mới dằn xuống được đã dấy lên.

Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau phân giải.