Chương 2

Bàn Tay Gã Đao Phủ

Đăng vào: 11 tháng trước

.

New York đón tiếp tôi chẳng phải chỉ với cái lạnh, mà còn với một người phụ nữ xinh đẹp và thú vị, một trong những đặc điểm nhận dạng của chị là những chiếc móng tay sơn màu xanh lục.

Đó là Tanith, bà thầy bói thành Paris. Và chị đã gọi tôi, John Sinclair, sang New York.

Từ Na Uy thưa vắng xuống thẳng nước Mỹ nhộn nhịp. Tôi có cảm giác như mình là một khách bộ hành lạc lõng khi đứng trong đám đông của một đại sảnh khổng lồ và đưa mắt tìm Tanith.

Tôi phải nói luôn từ đầu, đấy không phải là một nhiệm vụ chính thức. Sir James Powell, sếp của tôi, chẳng mấy đồng tình với sáng kiến bay sang New York. Đối với ông, những luận cứ đưa ra là qúa mù mờ. Nhưng tôi không tin ông. Rất có thể ông không còn muốn liên quan gì với cánh cảnh sát của nước Mỹ nữa, bởi đám đàn ông bên này thường hay hành động bất bình thường, một khi người ngoài chen vào công việc của họ.

Vậy là tôi lấy ba ngày phép và bay sang Mỹ. Phí tổn vé máy bay do Tanith nhận lời đảm trách từ trước, chị sang thành phố này đã được hai tuần nay.

Bên điện thoại, chị chỉ đưa ra những lời ám chỉ mù mờ. Có một lọat những vụ giết người bí hiểm đang khiến thành New York nín thở, người ta không tin được bất cứ lời giải thích nào.

Chúng tôi không hẹn với nhau một điểm hẹn hò cố định. Phi trường Kennedy bản thân nó đã là một thành phố khổng lồ. Những ai không quen thuộc chốn này, sẽ rất nhanh chóng bị lạc đường, Tanith chỉ dặn trước là sẽ cho người gọi tên tôi.

Quanh tôi là một biển người nhộn nhịp. Ai cũng vội vàng, những con người hấp tấp chạy tới chạy lui, còn tôi, một gã trai đang thong thả nhẩn nha từng nửa bước, có cảm giác như mình đang đứng lạc chỗ trong một thứ hỗn hợp khổng lồ nhưng có trật tự này.

Tôi không vội vàng, chỉ chú ý lắng nghe tiếng loa.

Thế rồi tôi nghe thấy tên mình.

Người ta mời tôi đi về khu A, đến bên cát xê của hảng Pan Am.

Tại sao không? Tôi đang đứng trong đại sảnh rồi. Bây giờ chỉ còn cần tìm quầy nữa mà thôi.

Tôi chặn đường và hỏi một cô chiêu đãi viên hàng không. Người đẹp có nước da màu cà phê giải thích cho tôi biết, tặng thêm một nụ cười quyến rũ. Dịch vụ hoàn hảo.

Khảng năm phút sau, tôi đã đến bên quầy của hãng Pan Am. Quanh quầy tương đối đông người. Mặc dù vậy, tôi vẫn nhìn ra Tanith. Chị mặc một chiếc áo bành tô lông thú màu nâu áo không được gài cúc và xoay bùng lên như một cái chuông khi chị phát hiện ra tôi và chạy ngược về phía tôi.

– John Sinclair, tôi rất mừng. – Chị giơ cả hai tay về phía tôi, chúng tôi chào nhau thật ấm áp.

Tôi ngửi mùi nước hoa của chị. Mà ngoài ra, Tanith cũng không có cơ hội che giấu quê hương của mình, bởi chị nói tiếng Anh đặc giọng Pháp.

Lần vừa rồi Benphagor đã dẫn chúng tôi đến với nhau. Tanith bị cuốn vào một vụ án nghiêm trọng mà cuối cùng cả hai chúng tôi đã dẫn đến một kết thúc có hậu.

– Anh khỏe không? – Chị hỏi và nhìn tôi cười rạng rỡ. Thời gian này Tanith để tóc dài. Nó óng ánh màu đỏ, và chạm xuống bờ vai chị.

– Ta phải nói ở đây sao? – Tôi hỏi.

– Ý anh là…

– Đúng thế, tôi mời chị đi uống một tách cà phê.

– Rất sẵn lòng, anh bạn yêu quý. – Chị vòng tay vào cánh tay tôi và cười. Không một dấu hiệu nào cho biết chị đang theo đuổi nghề nghiệp gì, bởi Tanith là một trong những bà phù thủy và bói bài nổi tiếng nhất thế giới. Ngôi nhà của chị ở thành Paris là điểm tới của không ít chính trị gia, những gương mặt lãnh đạo các ngành kinh tế, các diễn viên nổi tiếng cũng như các ca sĩ nổi tiếng, họ đến để mong chờ chị dự đoán tương lai. Người như Tanith mà bỏ trống căn hộ của mình trong Paris cả một thời gian, chắc chắn phải có một nguyên nhân nặng ký.

– Rất tiếc là anh không mang Suko theo cùng! – Chị nói, giọng trầm trầm.

– Đúng thế, tôi cũng lấy làm tiếc, nhưng sếp của tôi không chịu thông cảm.

– Tại sao?

Tôi nhún vai, giảm tốc độ đi xuống. Tanith cũng đi chậm lại cho đồng nhịp với tôi.

– Về mặt chính thức thì ông ấy thấy ở đây không có hiểm họa gì đáng kể.

Tràng cười của phụ nữ cắt ngang lời tôi.

– Không có hiểm họa hả? Rồi ông ấy sẽ biết. Ba người chết…

– Tôi muốn nói là không có hiểm họa về pháp thuật. Nhưng về phần tôi, tôi nghĩ rằng nguyên nhân là vì có những chuyện bất đồng giữa lực lượng cảnh sát Mỹ và lực lượng cảnh sát Anh.

– Nhưng anh đã nhiều lần đến New York. – Người phụ nữ Pháp xinh đẹp nhắc nhở tôi.

– Dĩ nhiên rồi. Nhưng tất cả những lần đó đều là những công việc chính thức, và người ta cũng đã chính thức nhờ chúng tôi trợ giúp. Trường hợp hôm nay khác. Tôi đến đây trong tư cách là người đi nghỉ và sẽ cố gắng để không can thiệp vào công việc của cảnh sát nơi này.

– Nhìn theo phương diện đó, chắc là anh có lý. – Tanith kéo tôi sang một bên, bởi chị vừa nhìn thấy một quán cà phê nhỏ. Chúng tôi còn thấy là nó có vài ghế trống.

Hai chúng tôi ngồi xuống bên một chiếc bàn bằng kính hình tròn. Ánh mắt của chúng tôi phóng qua khung cửa sổ rộng lớn, ra phi trường.

– Chị muốn uống gì? – Tôi hỏi người đàn bà Pháp.

– Cà phê.

Tôi kêu hai tách cà phê.

– Chị có thích New York không? – Tôi hỏi tiếp.

– Không thích lắm. – Chị đáp.

– Tại sao?

– Người Mỹ vội vàng quá. Tôi thấy nhớ phong cách nhẹ nhàng của người Pháp.

Tôi cười: “Cái đó tôi hiểu”. Thế rồi tôi châm cho mình một điếu thuốc lá, trong khi Tanith rút xì gà màu đen ra khỏi túi xách tay của chị.

Tôi châm lửa cho chị. Tanith gật đầu cám ơn. Cà phê được mang tới, tôi trả tiền ngay lập tức, cuối cùng Tanith nhìn tôi.

– Trông anh có vẻ như đang lo lắng, John.

– Ai mà chẳng có nỗi lo riêng. – Tôi cười ngắn.

– Vâng, vâng, chắc chắn rồi. – Chị búng cho tàn thuốc rơi vào chiếc gạt tàn – Nhưng những nỗi lo của anh là những nỗi lo đặc biệt. Anh đang tiến hành một cuộc chiến tuyệt vọng chống lại những thế lực mà anh hầu như không kềm chế được. Tôi cũng góp vào đấy một phần, và yếu tố quan trọng nhất là chúng ta chỉ có được những thành công riêng lẻ.

– Cái đó tôi quá rõ mà.

Tanith nhìn tôi. Tôi nhìn vào đôi mắt sâu thăm thẳm, ngắm gương mặt được son phấn nhẹ nhàng trang điểm bên hai gò má cao.

– Đừng cho tôi là đứa lắm chuyện, nhưng chúng ta phải bàn luận cởi mở với nhau về chuyện đó, bởi tôi có cảm giác rằng mỗi lúc ma thuật đen một mạnh mẽ hơn. Người ta nghe rất nhiều việc về các cô phù thủy.

– Thế nào kia? – Chị nhún vai – Nếu tôi biết điều gì cụ thể thì đã tốt, John. Chắc tôi đã nói cho anh nghe, ngay trong những buổi cầu hồn, tôi đã nhận thấy là dòng phù thủy bây giờ đang trỗi dậy. Tôi chỉ cần nhớ tới Wikka và nhớ tới Jane Collins mà thôi.

Với cái tên cuối cùng, chị không phải chỉ nhắc để nhớ là cả hai chúng tôi đều quen biết mà nó còn tác dụng như thể châm cho tôi một mũi dao.

Jane Collins! Trời đất. Tôi vội vàng rít một hơi thuốc lá, rồi cũng vội vàng thở phì khói ra.

– John, anh sao thế? – Tanith đã nhận thấy phản ứng kỳ lạ của tôi, chị nhìn tôi lo lắng.

– Thật ra thì không có gì đâu.

– Có đấy. Có phải vì Jane không?

Nói dối cũng chẳng được ích gì, vì thế mà tôi gật đầu.

– Đúng, vì Jane Collins.

– Sao nữa?

– Cô ấy lại giết người. – Tôi nói khẽ và hạ tia nhìn xuống.

Tanith đờ người ra vì sốc. Nhưng chị lại rất nhanh chóng kềm chế được và quay trở lại bình thường.

– Giết người? – Chị thở phào – Không, như thế…

– Jane là một phù thủy.

– Anh có gặp cô ấy không?

– Không trực tiếp – Tôi đáp lời – Nhưng tôi có nhìn thấy hậu quả, hậu quả rất khủng khiếp, tin tôi đi.

– Nếu anh không muốn nói về chuyện này nữa, John, thì thôi, tôi rất hiểu anh.

– Không, không. Được nói với ai đó về chuyện này, tôi cũng nhẹ bớt đi. Jane chính là tay đao phủ đen.

– Mặc dù tới đây vì một vụ án khác, nhưng bây giờ tôi đang nói về Jane Collinsvà những hành động khủng khiếp của cô ấy.

Tanith lắc đầu. Chị hầu như không hiểu nổi, nhưng biết là tôi không bao giờ nói đùa trong những chuyện như thế này. Sau một hồi im lặng chị hỏi:

– Bây giờ anh muốn làm gì?

– Chẳng làm gì cả – Tôi bẻ gãy một que tăm rồi thả cho nó rơi vào gạt tàn – Tôi chẳng làm được gì cả, mà phải chờ đợi. Mặc dù tôi tin chắc rằng, tới một lúc nào đó tôi sẽ gặp lại Wikka và qua đó cũng sẽ gặp lại cả Jane Collins.

– Đúng, tôi cũng tin thế. Tôi cảm nhận rõ những ảnh hưởng của họ. Những lúc ngồi bói bài tôi thấy rõ như vậy. Quỷ Satan đã mạnh mẽ lên. Gã đã lại sức, John.

– Dĩ nhiên, Wikka đứng về phía gã. – Tôi dụi điếu thuốc lá – Còn vụ án mà vì nó tôi sang đây có gì dính dáng đến quỷ Satan không?

– Có lẽ.

– Chính xác ra nó là cái gì?

Giờ đến lượt Tanith kể. Chị kể về ba vụ giết người. Tôi dược buết là cả hai người đàn bà Scarlet O’Banion và Tanith quen biết nhau từ trước. Họ đã nói chuyện với nhau trong một vài hội nghị và sau đó thường xuyên trao đổi thư từ với nhau. Qua một tạp chí chuyên ngành, Tanith được biết về sự ra đi của Lucille. Chị tìm cách gọi hồn người đã chết, nhưng chị không với tới được Scarlet O’Banion. Có cái gì đó ngáng trở ở giữa, nằm như một bức tường ở giữa, đó là bóng kẻ đã giết Lucille.

Quả quyết, Tanith lập nên một kế họach và thuê chính cái căn hộ nơi người bạn của mình đã bị giết chết. Chị ký hợp đồng thuê căn hộ đó bốn tuần. Chị đoán rằng cả hai vụ giết người kia cũng liên quan trực tiếp đến Lucille.

– Đó là một lời tiên đoán hay chị có bằng chứng? – Tôi hỏi.

– Bằng chứng. Tôi đã xem các tập tài liệu hồ sơ mà Lucille để lại. Chị ấy ghi mọi chi tiết về từng thân chủ. Cảnh sát không tịch thu những tập hồ sơ đó. Sau khi đọc kỹ, tôi được biết là cả hai nạn nhân đều là thân chủ của Lucille.

– Cảnh sát có biết điều đó không?

– Có.

– Người ta có điều tra tới hướng đó không?

– Chằc là có, nhưng không tìm thấy cái gì cả. Không có động cơ cho các hành động đó. Ít nhất thì trong con mắt các nhân viên điều tra.

– Nhưng đối với chị?

– Tôi thấy có đấy. Bằng một cách nào đó nó phải dính dáng đến nghề nghiệp của Lucile. Rất có thể chị ấy đã bước chân vào những khoảng không gian lẽ ra phải được coi là cấm kỵ. Và giờ thì thế giới bên kia trả thù.

– Mọi thứ nghe không hay chút nào, – Tôi thú nhận – bởi nếu người ta suy nghĩ tiếp thì thỉnh thoảng người ta cũng phải rút ra kết luận rằng, tất cả những người có liên quan đến Lucille hiện nay đều đang đứng trong hiểm họa.

– Anh nghĩ tới khách hàng của chị ấy.

– Chính xác.

– Đúng thế đấy, John. Nhưng chúng ta không thể canh chừng cho tất cả. Đó là việc không làm được.

– Không, mà đấy cũng không phải là công việc của chúng ta, nhưng chúng ta phải tìm cách tóm bắt lấy sự kiện này đến tận gốc rễ. Tôi không nhìn thấy một cơ hội khác. Tôi có cảm giác chị mời tôi sang đây rất đúng thời điểm. Tôi cũng sẽ vào căn hộ đó, thuê lại một phần căn hộ của chị, nếu chị không phản đối.

– Nếu không tôi mời anh sang đây làm gì?

– Đúng, chị có lý. Còn bản thân chị vẫn chưa liên lạc với các thế lực của bóng tối?

– Nếu anh muốn nói đến những buổi gọi hồn trong căn hộ đó thì chưa. Tôi vừa mới kể cho anh nghe về bức tường ngăn đó.

– Dĩ nhiên rồi. – Tôi chìm xuống trong cân nhắc – Lấy đâu ra động cơ? – Tôi lẩm bẩm sau một hồi lâu im lặng – Chúng ta đành phải bám vào những lời tiên đoán. Liệu có khả năng là chúng ta chẳng cần tìm thông tin nào ở chỗ Lucille?

– Thế thì ở đâu?

Một câu hỏi quá sức trả lời của tôi. Tôi cầm tách cà phê, muốn uống ngụm cuối cùng. Chính trong tích tắt đó phải có một chuyện gì rất kỳ lạ xảy ra. Tôi không nhìn ra nó, nhưng nét mặt của chị thầy bói thay đổi. Nửa ngạc nhiên, nửa kinh hoàng.

– Có chuyện gì thế? – Tôi hỏi.

– John! – Tanith nuốt khan – Khốn nạn, John, trên đầu anh có cái bóng của một dây thòng lọng.

Tôi cứng người ra. Những từ ngữ của chị thầy bói vang một lần nữa trong tai tôi.

Cái bóng của một dây thòng lọng.? Trên đầu tôi? Đột ngột, tôi thấy rõ gáy tôi đang sởn lạnh. Đồng thời, tôi còn cảm nhận thấy một thứ khác.

Có một vật đang ấm lên.

Trên ngực tôi là cây thánh giá thần, nó lên tiếng. Ngược lại với cảm giác lạnh trên gáy, nó tỏa ra một sức ấm nhất định. Đối với tôi, đây là một bằng chứng rõ ràng cho biết xung quanh đang có pháp thuật đen. Và Tanith vừa nói tới cái bóng của một dây thòng lọng là chính xác.

Tôi ngẩng tia nhìn lên, để hai chúng tôi nhìn vào mắt nhau.

– Nó ở đâu?

– Nó ở trên đầu anh.

– Rồi sao nữa?

– Nó không chạm vào người anh. Nhưng nó in bóng rất rõ lên trên tóc anh.

Tôi không dám đứng dậy. Hiểm họa đã ập tới đây, và tôi nhớ rằng đang còn rất nhiều người ngồi xung quanh chúng tôi. Nếu để cho những thế lực ma thuật đen đến từ bên kia thế giới, những thế lực mà hiện tôi chưa nhận diện được rõ ràng, ra đòn nơi này, rất có thể tôi sẽ đưa những con người vô tội vào hiểm họa.

Vì thế tôi không làm gì cả.

– Hãy kể cho tôi nghe cái dây thòng lọng từ đâu tới đây, Tanith? – Tôi nói với người đàn bà Pháp.

Chị gật đầu.

– Từ trên, – Chị thì thào – từ trên trần phòng. Và nó to dần ra. Phần bên dưới của nó choàng qua đầu anh và qua vai anh, thế rồi cái bóng chạy xuống đất và gộp vào phần còn lại của dây thòng lọng ở dưới đó.

– Cám ơn, Tanith. – Tôi nói khẽ.

– Giờ nó bé lại! – Tanith rít lên.

Tôi nhận ra mặt chị nổi da gà. Cái bóng đen kia giở trò. Cả tôi cũng nhìn thấy nó. Một dải thẫm màu lướt ngang qua mắt tôi. Thế rồi tôi không nhìn thấy nó nữa, nhưng mà Tanitn vẫn nhìn thấy.

Nó thòng xuống quanh cổ anh!

Báo động!

Và cũng trong tích tắt đó, tôi cảm nhận được sợi dây thòng lọng ma thuật, cho tới nay chỉ là một cái bóng đen, xiết nhỏ lại. Đột ngột tôi không thở được nữa. Tôi chỉ còn kịp hít hơi một lần thật ngắn, thế rồi chỉ một nhịp tim đập sau đó, tôi bắt đầu sặc sụa.

– John! – Tanith nhảy lên.

Ngồi đối diện với chị là một người đàn ông mà mặt đang đỏ lựng lên, như tự động, miệng tôi há ra, lưỡi thò ra ngoài, và tôi nghe loáng thoáng những tiếng kêu hốt hoảng của những người ngồi xung quanh. Có lẽ bây giờ họ đã nhận ra sự lạ! Còn tôi nặng nhọc giơ cámh tay phải lên, chỉ vào ngực mình, ra hiệu cho Tanith.

Hy vọng chị hiểu ra. Tanith phải sử dụng cây thánh giá thần của tôi. Giờ tôi đã quá yếu để làm việc đó. Đột nhiên, cái dây thòng lọng giật tôi về phía sau, đập người tôi thật mạnh vào thành ghế.

Tanith rời chỗ, chỉ với hai bước chân, chị chạy vòng quanh bàn, bàn tay chị thọc xuống làn áo sơ mi của tôi, trong một thoáng tôi cảm nhận những ngón tay lành lạnh của chị trên làn da mình, thế rồi chị cầm vào được cây thánh giá thần và đưa nó lên cao.

Phải đưa nó lên cổ tôi mới đúng!

Tôi nghiêng người sang bên. Tất cả những sự kiện chung quanh hiện lên như qua một lớp sương mù màu đỏ. Tôi hầu như không nhận được ra những dáng người nữa, sợi dây thòng lọng tàn nhẫn siết chặt lại mãi. Tôi không thở được.

Thế rồi tôi nghe thấy một tiếng rít. Một tia ánh sáng chói lòa bùng nổ khiến tôi phải nhắm mắt lại, và trong một thoáng không nhìn thấy gì cả, tôi thấy mình lại thở được.

Tôi lấy hơi thật sâu. Hai lần, ba lần, tôi nghe thấy tiếng Tanith nổi lên trong hỗn độn những âm thanh ở xung quanh và nặng nhọc nâng hai mi mắt lên.

Tôi thấy người khỏe hơn. Khốn nạn, vậy là một lần thoát và tôi đã trốn được cái dây thòng lọng bóp cổ. Toàn bộ chỉ nhờ vào Tanith. Nếu chị không phản ứng tỉnh táo đến thế, có lẽ mọi việc đối với tôi đã kết thúc.

Được thở thật sâu mới là một cảm giác sung sướng làm sao. Dần dần tôi thấy trong người ổn hơn. Lồng ngực tôi tràn ngập không khí, chẳng có gì ngăn trở tôi thở một cách tham lam và tôi lại nhìn thấy mọi vật xung quanh.

Người ta nhìn tôi trân trối. Rất nhiều con mắt dán chặt vào cổ tôi. Đàn ông, đàn bà, trẻ em thuộc nhiều màu da của nhiều dân tộc đều có mặt ở đây, và tôi cố gắng nở một nụ cười mệt mỏi.

Đúng lúc có hai người đàn ông mặc áo blouse màu xanh lục; lách qua đám người hiếu kỳ để đi tới. Đó là những nhân viên y tế muốn cấp cứu cho tôi. Khi họ bước đến bên bàn tôi khẽ lắc đầu.

– Không, thưa các quý ông, tôi rất cám ơn các quý ông đã vất vả tới đây, nhưng thực sự không cần thiết. Tôi tự khỏe lại được.

– Thật không, thưa ngài?

– Vâng, chỉ là một cơn choáng váng nhỏ thôi. Chuyến bay dài và vất vả. Tôi vừa từ London sang đây. Tất cả chỉ vì tôi bị thay đổi thời tiết và thời gian.

– Dĩ nhiên rồi, chuyện này cũng thường xảy ra. – Ông bác sĩ mỉm cười – Chúc ông những ngày vui vẻ ở đất nước chúng tôi, thưa ngài.

– Chắc chắn là tôi sẽ vui.

Cả hai người ấy bỏ đi. Những vị khách còn lại cũng dần không quan tâm tới tôi nữa. Tanith nhích ghế, ngồi xuống và lo lắng nhìn tôi.

Tôi đưa lòng bàn tay lau vầng trán đẫm mồ hôi. Thật sự tôi vẫn chưa qua hẳn cơn sốc. Tim tôi vẫn đập rất nhanh, hai bàn tay run, nhưng hơi thở đã trở lại bình thường.

– Ổn rồi chứ?

Tôi gật đầu.

– Vâng, tàm tạm được, chị yêu quý. Vụ vừa rồi nguy hiểm đến sát sạt.

– Tôi… tôi không ngăn cản được. Cái dây thòng lọng đó đột ngột hiện ra.

– Tôi đoán rằng, cả hai chúng ta cần phải dè chừng nhiều đấy – Tôi đáp lời – Mà nếu hôm nay không có chị ở đây và phản ứng kịp thời thì…

Tanith phẩy tay.

– Thôi, đừng làm to chuyện, John. Nhưng bây giờ chúng ta biết là hiểm họa rõ ràng có thực.

– Đúng thế, và những thế lực đó sẽ ra đòn.

– Bao giờ?

– Nếu tôi biết thì còn nói gì nữa. Ta còn muốn ngồi thêm ở đây không?

– Không đâu. – Tanith nhìn xuống đồng hồ – Ôi trời, muộn rồi đây. Nếu bị sa vào dòng giao thông trong giờ cao điểm là hỏng đấy, anh bạn yêu quý.

– Lên đường thôi. – Tôi quyết định.

Tanith không tới đây bằng xe ô tô riêng. Chúng tôi cũng không thuê một chiếc taxi bình thường, mà đi trực thăng. Mặc dù đắt tiền hơn, nhưng nhanh hon. Tôi thấy đường bay từ phi trường Kennedy về Manhattan là một sáng kiến rất hay, người ta tiết kiệm được cho khách đi tất cả những đoạn thời gian chờ bên các con cầu và bên những đoạn hầm ngầm.

Chúng tôi chờ cho chuyến trực thăng sau cất cánh. Tanith cầm chặt lấy tay tôi. Chị nhin tôi cười khích lệ.

– Hai đứa hiệp sức nhất định sẽ chiến thắng, John.

Tôi hy vọng thế. Suy cho cùng thì tôi lại muốn có mặt ở London càng nhanh càng tốt. Sắp tới là Noel rồi.

– Anh làm lễ Noel thế nào? Với gia đình Conollys?

– Không. Lần này tôi sẽ mở tiệc cùng với Suko và Shao, nhưng người ta đâu có biết cho tới đó còn những việc gì xảy ra. Gia đình nhà Conollys không có ở London, mà bay sang Thụy Sĩ, họ muốn mở tiệc Noel trong vùng núi.

– Theo như tôi được biết về vận hạn của họ, chắc chắn thế nào cũng có chuyện xảy ra. – Tanith nói.

– Đừng có nói gở. Họ muốn nghĩ ngơi thật sự. Đã có lần họ gặp chuyện trục trặc khi định đi nghĩ mùa đông. Hồi đó là ở vùng Grindelwald, khi những con kiến khổng lồ xuất hiện. Không nên để họ gặp một vụ thứ hai như vậy đâu.

– Không hiểu sao tôi có một linh cảm u ám hơn, John. – Gương mặt chị tối lại, nhưng rồi Tanith gắng gựơng mỉm cười, bởi chiếc trực thăng đang bay lại gần, chiếc trực thăng sẽ đưa tôi về Malhattan.

Chiếc trực thăng khá rộng, ngoài chúng tôi còn tám người nữa bước lên theo.

Một phi công, một phi công phụ và mười hành khách. Phi công phụ tá chào chúng tôi. Anh muốn cung cấp về những danh lam thắng cảnh của thành New York trong chuyến bay. Nhưng ngay từ bây giờ anh đã nhắc nhỡ rằng, Malhattan đang nằm dưới một tấm chuông khổng lồ tạo bằng khí thải, thêm vào đó là bầu trời mùa đông màu xám, ở trên này chúng tôi sẽ chẳng nhìn được mấy.

Trực thăng cất cánh.

Chỉ khi đã ngồi trên không, tôi mới có thể mường tượng hết độ lớn thật sự Của phi trường Kennedy. Đó là một khu vực khổng lồ.

Ở phía xa xa óng ánh mặt nước biển. Đại Tây Dương màu xám nằm bên dưới vô vàn những đám mây mùa đông, đen, nặng trĩu.

Chúng tôi bay về hướng tây. Queens đang nằm bên dưới chân chúng tôi. Những xa lộ thật rộng hiện thành những nét kẻ màu xám, bên trên đó là vô vàn những con kiến màu sắc sặc sỡ, những chiếc ô-tô.

Chúng tôi sẽ được đưa xuống một trong hai tòa nhà cao tầng của cặp nhà sinh đôi World Trade Centre, rồi từ đó chúng tôi sẽ dùng taxi đi tiếp.

Malhattan đang nằm trong khí thải. Chúng tôi hầu như không nhận thấy cả dòng East River. Chếch xuống nữa về phía nam là bức tượng thần tự do, tôi biết vậy nhưng không phát hiện ra. Chúng tôi bay qua tòa nhà của Liên hiệp quốc và nhắm vào cặp tòa nhà World Trade Centre. Chúng nhô ra lừng lững như hai cái gậy khổng lồ với từng làn khói màu xám.

Phi công đã bay đoạn này không biết bao nhiêu lần. Anh hướng vào một trong những chỗ đậu được thắp sáng đèn ở bên trên nóc một trong hai tòa nhà, chúng tôi lao thụt xuống dưới và cuối cùng mềm mại hạ cánh.

Khi bước xuống, ngọn gió ngay lập tức tóm lấy chúng tôi một cách giận dữ. Suýt nữa thì nó đẫy Tanith ngã xuống nền xi-măng. Tôi giữ chặt lấy chị, cúi người xuống và gồng mình chống lại những luồng gió gay gắt.

Nhanh như có thể, chúng tôi đi về hướng cửa ra, nơi có những chiếc thang máy đang đợi để đưa chúng tôi xuống dưới.

Mọi việc diễn ra thật nhanh.

Taxi đang chờ sẵn. Đáng tiếc là giờ cao điểm đã bắt đầu, và tôi trải nghiệm dòng giao thông hỗn loạn nhất thế giới ở giữa trái tim của Maihattan.

Chúng tôi đi dọc đại lộ America về hướng Nam. Vừa đi vừa bò vừa đứng, nhích từng chút một. Tắc-đi-tắc-đi…

Cứ thế tiếp tục. Đến Greenwich Village, đường phố còn tắt nghẽn hơn nữa. Lý do vì ở đây đất chật, không muốn đi tới tận nhà, chúng tôi xuống xe trước đó, và quyết định đi bộ.

Chẳng bao lâu chúng tôi nhận ra nguyên nhân gây nên vụ tắc xe khủng khiếp nọ bởi chúng tôi sa vào một cuộc biểu tình. Người ta biểu tình chống lại việc cắt xén các khoản viện trợ xã hội. Từ thời kỳ Reagan cầm quyền, những người nghèo còn trở nên nghèo hơn nữa.

Village là một mảnh đất đặc biệt, rất khó miêu tả. Nhìn thấy nó là tôi nhớ tới khu phố Soho ở thành London, nhưng sự so sánh này không hoàn toàn đúng. Ở giữa trái tim của Malhattan dĩ nhiên cũng có dân quý tộc, nhưng không cao ngạo như ở Soho.

Ở đây ta còn gặp đủ mọi loại nghệ sĩ như ở thời xưa. Các sinh viên, các họa sĩ, các nhà nặn tượng, những quán rượu tuyệt vời. Nghệ thuật ẩm thuật của châiu Âu xuất hiện trong rất nhiều dáng vẻ khác nhau. Tôi nhìn thấy những Restaurants Hungari, các cửa hàng bán bánh Pizza của Italia, các cửa tiệm Bodegas của Tây ban Nha, các cửa hàng bán phô mai của Hà Lan, những quán ăn của xứ Bayeru nước Đức.

Phủ trên tất cả những thứ đó là một biển âm thanh hỗn độn không bao giờ ngưng. Đó là nhìn Greenwich Village bằng con mắt của một khách du lịch. Thế nhưng vốn là một cảnh sát viên, tôi còn biết đến một khía cạnh khác, một bộ mặt khác của mảnh đất này.

Thuốc phiện, mại dâm, các băng đảng ma cô, mafia, tất cả đều tồn tại trong cái khu New York điên khùng này. Bởi ở chỗ nào thì những băng đảng sát nhân cũng muốn nhúng tay đến túi tiền.

Chúng tôi đi qua những con phố hẹp. Những ngôi nhà sặc sỡ, với những mặt tiền không phải chỉ được quét sơn màu, mà rất nhiều khi còn được vẽ thành những bức tranh thực sự. Đa phần là những giấc mơ về tình dục và bạo lực được thể hiện bằng bàn tay nghệ thuật.

– Ta phải chen qua đám đông bao lâu nữa? – Tôi hỏi người bạn đi cùng và đồng thời quan sát hai cô con gái trẻ, bất chấp trời lạnh giá vẫn chỉ mặc bộ đồ cộc của võ sĩ quyền Anh và chuyển động bằng giày gắn patin.

– Phố tới, nó nằm phía bên phải.

– Rồi sau đó?

– Ta phải chờ.

– Chờ ai?

– Có một thân chủ xứ Chicago đã hẹn trước.

Ô, đây là một tin bất ngờ.

– Sao bây giờ chị mới nói? – Tôi ngạc nhiên – Cô ta nói gì khi gặp một người lạ?

– Chẳng nói gì cả. Cô ta đã nghe danh tôi rồi.

– Chị nổi tiếng đến thế ư?

– Ít nhất thì trong những nhóm người nhất định. Cô gái đó từ trước đã muốn đến gặp tôi ở Paris, chỉ có điều tôi bận bịu quá, không dành được thời gian.

– Vậy thì chắc cô ấy phải có tiền.

– Rất nhiều. Người chồng đã qua đời của cô ấy đã kiếm được rất nhiều tiền, khi người ta cho san bằng các lò mổ.

Chúng tôi rẽ sang phải.

– Ngôi nhà thứ ba phía bên phải – Tanith nói – Ngôi nhà được quét sơn màu xanh lục ấy.

Tôi nhìn lên phía trước. Phố này không đông như những phố vừa rồi. Có cả một vài cửa hiệu.

Tôi đi nhanh hơn một chút, lách mình qua vai hai chàng da đen vạm vỡ, ăn mặc quần áo sặc sỡ và đang cầm tay nhau, ngay sau đó tôi nhìn rõ ngôi nhà.

Nó có nhiều ban công. Chúng được chia đều trên cả bốn tầng lầu.

Trên bậu ban công của tầng hai có một người đàn bà đang đứng. Cô ta mặc một chiếc áo bành tô lông thú, tóc thẫm màu và nhìn xuống dưới. Cửa sổ ở giữa đang mở toang.

Tôi thấy lạ, tại sao cô ta lại đứng ở đúng tầng nhà nơi Tanich đang sống. Tôi đã muốn hỏi chị thầy bói nên xoay người lại và đột ngột nghe thấy tiếng thét của những khách bộ hành khác.

Tôi quay phắt lại. Mắt tôi mở lớn ra. Người đàn bà kia đã trèo lên trên thành ban công, đứng đó một thoáng, dang hai cánh tay ra và nhảy xuống.

Tiếng kêu định thốt ra bị ngưng lại giữa cổ họng tôi. Tôi không thể làm thêm điều gì cho chị. Người dàn bà đó đang bay trong không khí. Những con người ở bên dưới khu vực cửa sổ nhảy ngay tránh sang bên, tạo chỗ, để người phụ nữ kia khi rơi xuống sẽ không đập những khách bộ hành khác ngã theo.

Nhưng chị ta không rơi xuống đất.

Ở giữa chừng, những người khác cũng nhận ra điều đó. Quanh cổ chị có một sợi dây thòng lọng và cả cái đầu dây của nó, sợi dây rít lên một tiếng ghê hồn và căng ra khi cú nhảy của người đàn bà bị cắt ngang.

Trong khoảng thời gian một giây đồng hồ, một sự im lặng nín thở chìm xuống cả khu phố. Thế rồi những tiếng la thét vẳng lên trên bầu trời tháng muời hai xám xịt. Mặc dù nó thoát ra từ rất nhiều cổ họng, nhưng nghe như một tiếng kêu thét duy nhất đang lao vút lên trên.

Thật rùng rợn.

Rất may mà đa phần các khách bộ hành đã tạt sang hai bên. Họ không muốn dừng lại ở hậu trường của sự việc rùng rợn nọ. Tôi được rộng đường và chạy tới, dừng lại ngay bên dưới đôi chân đang đung đưa của người đàn bà.

Ngay cả khi cố với tay lên cao tôi cũng không chạm được vào chân chị. Ở giữa cảnh phố đông vui êm ả, người đàn bà là một bức tranh chết chóc. Ngọn gió nghịch đùa với cơ thể chị, nó lắc lư bên này sang bên kia, tôi thậm chí nhìn thoáng chéo được lên mặt chị, nhận ra đầu lưỡi thò khỏi khuôn miệng và ánh mắt tắt ngang.

Không, không còn giúp gì được cho người đàn bà nạn nhân ấy nữa.

Có ai đó cắm phập những đầu ngón tay vào cánh tay bên phải của tôi. Đó là Tanith, chị đứng bên cạnh tôi và thì thào câu gì đó nhưng tôi không hiểu. Mắt tôi chỉ còn nhìn thấy người đã chết. Một cảm giác lo âu phập phồng trải ra chiếm cứ toàn bộ tâm khảm tôi. Phải chăng tôi nên tự trách mình?

Không, chúng tôi không thể làm được gì cả!

– Nạn nhân thứ tư – Tanith nói – Tôi thật không hiểu, John. Đây là trò chơi gì vậy?

– Ngày hôm nay còn có khách hàng nào nữa không? – Tôi hỏi.

– Có, một cô gái. Judy Jackson.

– Từ chối gặp cô ta đi.

– Tôi không biết tôi có thể gặp cô ấy ở đâu. Cô ấy là ca sĩ, là một ngôi sao của một vở nhạc kịch tại sân khấu Broadway. Cô ấy di chuyển suốt, chẳng bao giờ ở yên một chỗ. Cô ấy được tất cả mọi người tung hô.

Những khủyu tay cứng rắn gạt bắn chúng tôi sang bên. Các cảnh sát viên New York xuất hiện và đẩy những người tò mò lùi về. Họ cư xử chẳng mấy rụt rè. Thậm chí còn gầm gừ nạt nộ bốn phương, và thỉnh thoảng dùng đến cả tay chân thô bạo.

Tôi tóm lấy Tanith và tìm cách lại gần cửa vào nhà. Có ba gã con trai không muốn cho chúng tôi đi qua. Đó là những tay Punker sặc sỡ, gớm ghiếc. Tôi đi vòng quanh chúng và đến bên cánh cửa, Tanith nhanh tay mở ra. “Đằng nào cảnh sát cũng tới ngay đây!”.

Sau khi mở cửa, chị dẫn tôi vào một khoảng hành lang rộng, ở cuối hành lang có cầu thang. Nhà này không có thang máy. Chúng tôi phải đi theo những bậc cầu thang bằng gỗ được đánh bóng sáng như gương để lên trên tầng hai.

Lại một khoảng hành lang rộng mở mời đón chúng tôi. Nó được quét những màu sơn thẩm, u ám. Khi Tanith bật một công tắc điện, nhiều bóng đèn đồng thời cháy bừng lên trên những khoảng tường nằm giữa các cửa vào phòng, chúng chiếu sáng rõ cả hành lang.

– Chị có bao nhiêu phòng? – Tôi vừa hỏi vừa đếm cửa.

– Tám.

– Chị muốn làm gì với chúng?

– Cứ mỗi đêm tôi ngủ ở một phòng khác nhau.

Tanith dẫn tôi đi qua cánh cửa rộng nhất ở cuối hành ang. Cửa không khóa. Cửa dẫn vào phòng tiếp khách.

Vừa mở cửa chúng tôi đã nhận ngay ra luồng gió thổi thốc vào qua khuôn cửa sổ để mở. Nó lật tung một vài giấy tờ mà Tanith đã bỏ lại đó. Chúng tôi đi về khuôn cửa sổ và nhìn ra ngoài.

Ngay lập tức một cảnh sát viên to tiếng mắng mỏ, vung vẩy dữ dội hai cánh tay:

– Đứng yên đó, và đừng có sờ vào xác chết!

Vừa xoay đi tôi vừa vẫy về phía anh, ra hiệu tôi đã hiểu ý. Đoạn dây được buộc vào phần lò sưởi nằm bên dưới cửa sổ. Mà là được buộc bằng một nút thắt đúp dày cộm.

Cho tới lúc này, cái hành động có vẻ ngoài của một vụ tự tử đối với tôi vẫn còn là một câu đố.

Tôi không rỏ điều gì đã đẩy người đàn bà bước vào cái chết bằng phương thức đó. Có lẽ ngôi nhà che giấu một bí mật?

Tôi nhìn quanh. Thật ra thì căn phòng trông rất bình thường, chỉ trừ trần phòng rất cao, thế nhưng đây là chuyện thường xảy ra trong những ngôi nhà kiểu cổ. Những tủ sách, một chiếc bàn làm việc, những hộp đựng hồ sơ, tất cả đều được kéo ra giống như trong mọi phòng làm việc khác. Tôi không nhìn thấy bất kỳ một công cụ pháp thuật nào, không một đồ vật cho biết chủ nhân của nó có một nghề đặc biệt, nhưng rất có thể chúng nằm ở những căn phòng khác.

Tanith đã ngồi xuống ghế. Chị vẫn còn để nguyên trên mình chiếc áo bành tô bằng lông thú rất rộng. Hai bàn tay chắp vào nhau, chị nhìn vào khoảng trống trước mặt. Thỉnh thoảng chị lại nhún vai.

Tôi biết tâm trạng chị bây giờ ra sao, nên tìm cách an ủi:

Chị đừng tự trách mình. – Tôi nói khẽ.

Chị mỉm cười yếu ớt.

– Tôi cám ơn anh, John. Anh tử tế quá nhưng lẽ ra tôi phải biết trước mới đúng.

– Không ai biết nổi đâu.

– Có đấy, tôi đã cảm thấy. – Chị đột ngột xoay người đi để nhìn vào mặt tôi – Ngôi nhà này, John, là một ngôi nhà ma ám. Tin tôi đi, cái ác đang lẩn khuất đằng sau những bức tường này. Tôi cảm nhận thấy nhu thế. Một ngôi nhà rùng rợn, hiểm độc. Một lời nguyền rủa nguy hiểm đã bám chặt vào đây.

– Tại sao chị lại nghĩ như vậy?

– Anh biết khả năng linh cảm của tôi. Từng tế bào trên cơ thể tôi đang cảm nhận rõ là cái ác đang bao quanh chúng ta.

– Chị có thể miêu tả rõ hơn không?

– Hầu như không. Nhưng tôi sẽ tìm ra nó. Hoặc cả hai chúng ta. Thêm vào đó, tôi có cảm giác là Lucille chưa chết.

– Chị nói gì vậy?

– Đúng thế, chị ấy còn sống mà lại không còn sống nữa. Linh hồn chị ấy không tìm được sự an bình, John. Nhà này có ma…

Tôi gật đầu, Bản thân tôi cũng đã nghĩ đến một thứ tương tự.

– Nhưng tại sao hồn Lucille vẫn lẩn khuất nơi đây…

– Bởi trong ngôi nhà này có một thế lực khác, một thế lực rất mạnh mẽ và tóm bắt linh hồn đó.

– Thế lực đó là thế lực nào?

– Joahn, đó là thứ tôi chưa biết. Chúng ta có thể tìm ra nó. Có thể tìm ra qua một cuộc gọi hồn. Ngôi nhà này che giấu một bí mật độc hiểm, chỉ có điều tôi chưa biết tôi phải tìm kiếm nó như thế nào và ở đâu.

– Có lẽ trong quá khứ.

– Có thể. Người ta cần phải biết nó được xây dựng từ thời nào. Rất có thể đã từng có một kẻ đã thờ quỷ Satan sống ở nơi này. Mọi chuyện đều có thể, John, và tôi cảm nhận rõ gánh nặng đó.

Những tiếng còi xe cảnh sát vang lên. Người ta đã báo động cho ban trọng án. Những chiếc xe ào tới.

Tôi chạy đến bên khuôn cửa sổ, nhìn ra ngoài và thấy ba dải đèn xanh đang xoay nhấp nháy. Một hàng các phóng viên đang chen lấn xung quanh những chiếc xe. Bởi xác chết treo đàng trước mặt tiền nhà, nên đám nhà báo dĩ nhiên đang có những cơ hội tốt nhất của họ. Rồi họ sẽ dùng những bức ảnh của mình để châm cho lòng hiếu kỳ của người đọc cháy bùng lên và số lượng những tờ báo bán ra trong một hai ngày tới sẽ lao vọt lên trời.

Tôi quay trở lại.

– Ta sẽ bị hỏi cung ngay bây giờ đây. Ta sẽ nói gì?

– Nói sự thật.

– Chắc chắn rồi. Nhưng có lộ những phỏng đoán của bọn mình không?

– Ôi trời đất. Nói ra cũng có ai tin đâu, John. Không, tốt hơn là im lặng.

Đã có tiếng bước chân vang lên vào khúc cầu thang. Chuông kêu, Tanith đứng dậy và đi qua hành lang, mở cửa.

Cả ba người đàn ông đồng thời đổ ập vào căn hộ. Hai người ngay lập tức chạy xuyên chéo qua căn hộ, ném cho tôi một cái nhìn thật ngắn, thật lạnh rồi đến bên cửa sổ.

Thế rồi nhóm trưởng bước vào. Cùng với Tanith, anh ta bước vào phòng tiếp khách. Khi nhìn thấy tôi, anh ta ngạc nhiên dừng lại.

– Ông là ai?

Tôi xưng danh của mình.

– Ông Singlair là một người bạn của tôi – Chị thầy bói giải thích – Ông ấy tới đây từ London.

– Nghe giọng thì tôi rõ rồi – Người trưởng nhóm cảnh sát gầm gừ đáp trả – Nhưng để cho ông biết ngay là ông đang làm việc với ai, tôi cũng sẽ nói cho ông nghe tên tôi. Tôi là trung úy Melvin và nắm trong tay một trong những khu vực ghê tởm nhất thành phố New York. Rõ cả chứ?

– Chắc chắn rồi.

Melvil gây ấn tượng của một cảnh sát viên đã tan vỡ mọi ảo vọng. Chắc chắn người ta sẽ không bao giờ chọn anh làm nhân vật chính cho một bộ phim truyền hình nhiều tập. Mái tóc anh sáng màu và đã thưa thớt. Anh ta mặc một chiếc áo bành tô bằng da đã sờn mòn, óng ánh màu xanh lục. Bên dưới không có áo vét tông. Vì cúc của áo bành tô không đóng, nên tôi nhìn thấy tà áo sơ mi lẫn một cái áo len cộc tay bên trên.

Mặt anh chằn chịt vết nhăn. Hai làn môi mỏng dính như hai lát phô mai.

Melvin ngồi xuống và nói chuyện với nhân viên của mình.

– Tự tử hả? – Anh gọi về phía cửa sổ.

– Không, sếp.

– Tai sao các cậu lại tin như vậy?

– Kinh nghiệm. Đây cũng đúng là cái trò khốn nạn mà chúng ta đã tìm thấy ở ba xác chết kia.

– Được, ghi lại đi. – Anh ta ngẩng đầu lên rồi nhìn chúng tôi – Xác chết thứ tư – Anh nói.

– Chúng tôi biết. – Tanith đáp.

– Được lắm. Nhưng tôi có cảm giác là bà biết nhiều hơn là bà muốn thú nhận.

– Tại sao ông lại nghĩ như vậy?

– Chỉ là cảm giác thôi. Suy cho cùng đây đâu có phải là người chết đầu tiên trong ngôi nhà này. Hay là tôi lầm?

– Không, Scarlet O’Banion đã bị giết ở đây.

– Chính thế, chị thầy bói Lucille đã chết. Và tôi dám cuộc rằng, cái xác chết mới này cũng là một trong những thân chủ của chị ta.

– Ông thắng cuộc rồi, trung úy. – Tôi nói.

– Vâng, thưa ông. Bao giờ tôi cũng thắng cuộc. – Anh ta sắc mắt nhìn tôi – Có thể khả năng tôi đã gặp ông một lần nào đó rồi không?

– Nếu ông đến London…

– Không, ở đây kia?

– Tôi đến New York lần đầu.

– Ông tên là Singlair. Mà nếu tôi không lầm thì cái tên này không phải chỉ có ở một người. Nhưng tôi biết rất chính xác là tôi đã từng nghe tên Singlair trong một mối quan hệ nhất định nào đó.

– Tôi không biết chúng ta đã từng gặp nhau ở đâu thưa trung úy. Thật sự không biết.

– Trực tiếp thì không. Nhưng cái tên họ của ông…

– Thì ông vừa nói đấy, có rất nhiều người mang họ Singlair.

– Thôi đừng chơi trò đố chữ ở đây. Ông vẫn còn ở lại trong cái thành phố dễ thương của chúng tôi mà.

– Dĩ nhiên rồi.

– Được, vậy thì tôi đề nghị luôn lời giải đáp cho vấn đề tên họ. Giờ tôi muốn biết ông có thể khai báo những gì.

– Không có gì để khai báo cả.

– Thế cũng còn hơn là không nói gì. – Anh ta cười gằn – Thôi ông kể lại từ đầu đi.

Tôi vâng lệnh. Dĩ nhiên là tôi giữ kín vụ tấn công bí hiểm tại phi trường, nhưng cái đó anh ta cũng đâu có muốn nghe. Anh ta chỉ quan tâm đến từ thời điểm phát hiện ra xác chết.

– Chúng tôi phải tận mắt chứng kiến vụ giết người hay là vụ tự tử này, trung úy. – Tôi giải thích.

– Mà không làm được gì cả? – Anh ta hỏi móc.

– Không, chúng tôi ở quá xa.

– Sau đó ông có chạy vào nhà?

– Vâng.

– Ông gặp ai không?

– Không một ai.

– Ông có thể thề chứ? – Melvin nhìn cả hai chúng tôi.

Lần này Tanith trả lời.

– Dĩ nhiên chúng tôi có thể thề. Chúng tôi không gặp một ai.

Melvin ngẩng đầu lên. Làn môi giật giật.

– Tôi không biết rồi chuyện này còn lan ra đến những đâu. Nhưng tôi hy vọng đây là xác chết cuối cùng, bởi cho tới nay thì cả bà cũng bị chìm vào một danh tiếng không được sáng sủa cho lắm.

Tôi có thể kể cho anh ta nghe một vài điều về câu nhận xét cuối cùng đó, nhưng tôi bỏ qua và chỉ nhỏm người dậy.

– Ông còn câu hỏi nào không, trung úy?

– Hiện thời thì không. – Anh ta cũng đứng dậy và nhìn cái tủ đựng hồ sơ – Chúng tôi đã cho chụp lại tủ hồ sơ này. Lẽ ra phải cho người canh chừng tất cả những ai đã từng một lần đến nhờ bà thầy bói này tiên đoán tương lai. Nhưng tôi đâu có nhiều người đến thế. Cả hai ông bà đã tình cờ đến xem bói ở chỗ Lucille hay sao?

– Không, thưa trung úy. – Tanith đáp lời – Cô O’Banion là một người bạn của tôi. Vì thế mà tôi đã sang New York.

– Ra vậy… – Anh ta đằt cuốn sổ ghi chép vào túi, xoay người để bước đi. – Chắc chúng ta sẽ còn gặp nhau. Và rồi ông, Singlair, tôi sẽ tìm ra tất cả mọi thông tin cần thiết, hứa chắc chắn với ông như vậy.

– Chẳng lẽ ông nghi ngờ tôi, trung úy?

– Không.

– Tại sao ông lại quan tâm tới tôi như vậy?

– Vì cái tên của ông, đơn giản thế thôi. – Anh ta xoay người và bước đi. Hai nhân viên im lặng đi theo.

Khi cánh cửa sập vào ổ khóa, Tanith thở ra.

– Ai da, – Chị nói – khó chịu ghê. Có vẻ như gã kia không ngửi nổi anh, John.

– Tôi không chắc như vậy, Melvin gây ấn tượng là một cảnh sát viên tốt. Bốn vụ giết người trong khu vực của anh ta, có thể khiến cho bất kỳ người đàn ông nào cũng nổi điên, tin tôi đi. Hơn thế nữa, đúng là tôi đã có lần sang New York dọn dẹp cho một vài vụ. Đó là những vụ chống cương thi và ma… ma bùn muốn tràn xuống Malhattan.

– Melvin lúc đó có tham gia không?

– Không, nhưng vụ việc đã gây xôn xao một thời đối với người trong ngành. Chắc chắn đã có một số người nghe chuyện. – Vừa nói, tôi vừa đi về hướng cửa sổ và nhìn ra ngoài.

Người ta đã cắt dây để đưa người chết xuống. Xác chết đã được đưa đi. Một bức tranh quái gở. Khi người ta đặt một xác chết vào một quan tài để đưa đi chỗ khác. Nó tạo thành một bức tranh chẳng bao giờ làm ta dễ chịu.

– Hai ta làm gì bây giờ? – Tanith hỏi.

– Chờ đợi.

– Chờ ai?

Tôi nhún vai.

– Chờ Judy Jackson, chờ kẻ giết người. Có lẽ còn chờ cả những thứ khác nữa, tôi chưa biết hết.

– Judy không nói rõ cô ta sẽ đến đây vào mấy giờ – Chị thầy bói nói – Vì thế mà chúng ta phải ở lại đây.

– Tôi cũng không hề định bỏ đi chỗ khác. Đầu tiên tôi muốn xem kỹ căn hộ đó, kể cả ngôi nhà. Có những ai sống ở đây?

– Tôi hầu như không biết gì cả. Tôi rất hiếm khi gặp họ, bởi họ phải làm việc. Chỉ tối đến họ mới quay trở về đây.

– Ta phải nói chuyện với họ. Rất có thể họ đã nhìn thấy điều gì đó bất thường.

– Hoặc là họ đang ở trong hiểm họa mà không biết.

– Kể cả điều đó. – Tôi đồng tình.

Đột ngột, Tanith cười lên, Khi tôi nhìn chị, chị nói:

– Này John, tôi đói rồi. Nghe thật ngu ngốc, nhưng nó là sự thật.

– Vậy ta đi ăn.

– Không – Chị lắc đầu – Tôi có một đề nghị tốt hơn. Phải có một người ở lại đây. Ở gần đây có một quán bán thức ăn nhanh. Tôi sẽ tới đó và mua một ít đồ.

– Hamburger?

– Anh thích thứ khác sao?

– Tốt thôi. – Tôi cười – Cho tôi một cái bánh lớn với rất nhiều nước xốt cà chua.

– Tôi nhớ rồi.

– Trong thời gian đó tôi sẽ đi thăm căn hộ của chị. Tám phòng không phải ít đâu.

Tanith đã đi ra cửa, tôi đi theo chị. Khi chị thầy bói bước theo cầu thang xuống tầng dưới, tôi xoay nguời về. Nghĩa là tôi xoay lưng về phía cửa, tôi đứng lại và nhìn dọc dãy hành lang. Một hành lang dài thật sự. Người ta chỉ gặp những khoảng hành lang như thế này trong những ngôi nhà cũ. Nhất là ở London có rất nhiều ngôi nhà tương tự. Tôi cân nhắc, những vụ giết người này phải có một động cơ chung. Chỉ có điều tôi sẽ tìm thấy nó ở đâu?

Tôi chầm chậm bước tới. Không gian yên tĩnh trở lại. Những bức tường rất dày của ngôi nhà ngăn không cho tiếng ồn từ ngoài phố tràn vào đây. Ở trong một ngôi nhà như thế này, người ta không cần phài làm thêm phần cách âm bổ sung.

Tôi nhìn vào từng căn phòng một. Thứ tôi thích nhất là phòng tắm.

Nó được lát gạch màu đen.

Đây là thứ tôi chưa gặp bao giờ. Ngạc nhiên, tôi dừng lại bên ngưỡng cửa và bật điện lên. Những bóng đèn được gắn chặt vào trần phòng, chúng phải sáng rất mạnh mới đủ sức chiếu rọi căn phòng.

Những viên gạch céramic lát tường đen như màn đêm với những đường viền màu trắng. Tất cả những đồ sứ vệ sinh mang một màu xám. Chỉ còn thiếu một tấm gương chỉ ra một màu tối nữa mà thôi.

Trong căn phòng phảng phất một thoáng nước hoa của Tanith. Người ta nhận thấy ai đang sống nơi này.

Những bước chân của tôi đang tiến vào thoáng dừng lại. Thậm chí cả trần cũng được sơn thẫm màu. Những bóng đèn trông như những con mắt đang lóe sáng.

Phòng tắm gây một ấn tượng kỳ lạ, bí hiểm giống như toàn bộ căn hộ này. Mặc dù không có bằng chứng cụ thể, nhưng tôi nhận thấy ở đây có gì đó không ổn.

Khi tôi rời phòng tắm, cảm giác đó vẫn không nhẹ đi. Ngược lại nó còn mạnh mẽ hơn lên.

Tôi chú ý đến cánh cửa tiếp theo đó. Cửa không khóa và tôi nhìn vào một căn phòng để trống hoàn toàn không có đồ gỗ gì cả. Lại thêm một thứ khiến tôi ngạc nhiên, nhưng nếu một người đàn bà ở tới tám căn phòng, thì cũng khó mà bày biện cho tất cả.

Cả những căn phòng sau đó cũng được trang trí rất sơ sài. Kể cả phòng ngủ và kể cả bếp. Tất cả đều cho thấy Lucille hoàn toàn không có ý định ở lâu nơi này. Nó chỉ được trang trí tối thiểu, để chị thầy bói có thể nhanh chóng chuyển đi nơi khác. Tôi đi tiếp đến phòng làm việc. Đây là nơi chị thầy bói đã tiếp khách. Bàn tay tôi vừa đặt lên nắm đấm cửa, tôi đã thấy ngạc nhiên.

Tôi vừa nghe thấy một tiếng động. Những âm thanh kỳ lạ, hoàn toàn không thích hợp với căn hộ.

Khi tôi tập trung tư tưởng, tôi nghe thấy nó rõ hơn. Nó vang lên đàng sau cánh cửa, và có vẻ như trong tai tôi, nó là một tiếng thở dài sợ hãi.